Tuesday, December 28, 2010

Cuộc di cư vĩ đại chạy trốnCộng Sản 1954-1955





Trong những năm đầu tiên của chế độ, khi toàn dân cùng với chính quyền bắt tay vào việc xây dựng đất nước, thì đã gặt hái được những thành quả ngoạn mục như sau: 
Trước hết là việc chuyên chở và định cư cho hơn 900.000 người di cư, trong đó có gần 700.000 người Công giáo. Việc chuyên chở người di cư từ Bắc vào Nam được kế hoạch và sử dụng phương tiện chuyên chở của Pháp và Mỹ. Còn việc định cư thì hoàn toàn chỉ do tiền viện trợ của Mỹ đài thọ. Công cuộc định cư sở dĩ hoàn thành mau chóng và tốt đẹp là một phần nhờ ông Diệm đã chọn được, những vùng đất phì nhiêu rộng lớn cho dân di cư. Ví dụ như ông Diệm đã:
- Lấy đất Cái Sắn màu mỡ cấp phát cho 45.000 nông dân.
- Lấy bờ biển Bình Tuy và đảo Phú Quốc, nổi tiếng nhiều hải sản cho dân chài  lưới.  
- Lấy Long Khánh, Định Quán, Gia Kiệm, Hố Nai cho dân khai thác lâm sản và làm đồ mộc. 
- Lấy Ban Mê Thuột và Cao Nguyên đất đỏ phì nhiêu cho dân trồng trọt hoa mầu xuất cảng.  
- Lấy vùng Ngã Ba Ông Tạ, Tân Bình, Gò Vấp chung quanh Sài Gòn cho dân thương mãi và kỹ nghệ …

        Nhờ tiền bạc dồi dào của Mỹ, nhờ chính quyền dành cho mọi sự dễ dàng, nhờ Tổng Thống Diệm chú tâm nâng đỡ, chẳng bao lâu người dân di cư miền Bắc đã hội nhập dễ dàng vào cuộc sống của dân miền Nam, mà trước đó họ coi là vùng đất xa lạ.

Và cũng chẳng bao lâu, đời sống dân di cư đã đi từ ổn định, đến trù phú còn hơn cả dân địa phương. Công cuộc định cư mau chóng và tốt đẹp cho hơn 900.000 người di cư, đã làm cho các quốc gia trên thế giới, nhất là Hoa Kỳ phải khâm phục. Một bác sĩ trẻ của Hải Quân Mỹ, ông Tom Dooley, một nhân vật rất mộ đạo Thiên Chúa, từng tham gia vào việc chuyên chở người Bắc di cư vào Nam, Ông nhận thấy tinh thần chống Cộng cao độ của người Thiên Chúa giáo Việt Nam, nên ông đã tình nguyện ở lại miền Nam để thực hiện nhiều công cuộc nhân đạo, viết sách ca ngợi công trình di cư và định cư, làm cho nhân dân Mỹ càng thêm kính phục Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Đây là một thành công lớn về mặt xã hội của chính quyền VNCH.
Trong những năm 1955–5196. Ngoài công cuộc định cư cho dân miền Bắc, nhiều cải cách xã hội, cũng như những biến cố chính trị tốt đẹp khác, càng làm tăng thêm uy tín của ông Diệm:
- Ngày 4 tháng 4 năm 1956, Chính Phủ bắt ông Ưng Bảo Toàn, Tổng Giám Đốc thương mãi ở Bộ Kinh tế vì tội bán gạo chợ đen cho VC.
- Ngày 28 tháng 4 năm 1956, quân đội viễn chinh Pháp xuống tàu về nước.
- Ngày 13 tháng 7 năm 1956, xử tử tướng Ba Cụt, một vị lãnh tụ nghĩa quân Hòa Hảo, chấm dứt tình trạng mất ổn định tại miền Tây Nam phần.
- Ngày 21 tháng 8 năm 1956, Chính Phủ bắt ông Vũ Đình Đa và đồng bọn về tội biển thủ mấy triệu bạc của Ngân Hàng Quốc Gia.
- Ngày 26 tháng 10 năm 1956, ông Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa.

Sau trận Điện Biên Phủ, Hiệp Định Genève được ký kết giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Pháp, tạm thời chia đôi Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được tập trung ở miền Bắc, và hệ thống bộ máy dân sự và lực lượng quân sự của chính quyền Liên Hiệp Pháp được tập trung ở miền Nam, chờ ngày tổng tuyển cử tự do, dự kiến sẽ xảy ra vào ngày 20 tháng 7 năm 1956. Điều 14 phần (d) của Hiệp định cho phép người dân ở mỗi phía di cư đến phía kia, và yêu cầu phía quản lý tạo điều kiện cho họ di cư trong vòng 300 ngày sau thoả hiệp đình chiến (Điều 2), tức chấm dứt vào ngày 19 tháng 5 năm 1955.

Để giám sát thực thi hiệp định, Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến được thành lập theo điều 34 của Hiệp Định với đại diện của ba nước Ấn Độ, Ba Lan, và Canada.

Theo tuần báo Time, những người di cư vào miền Nam, đặc biệt những người Công giáo Việt Nam, cho rằng họ đã bị đàn áp tôn giáo dưới chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng Sản). Nhiều người lại vì lý do chính trị : họ là những người làm việc cho Pháp, hay giới tư sản, tiểu tư sản không có cảm tình với Chính Phủ Cộng sản. Một số người là nạn nhân của cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, bị lấy mất tài sản nên phải bỏ ra đi. Vào lúc này, các Linh Mục miền Bắc cũng đã giục giã các con chiên di cư vào Nam.

Bên phe Cộng Sản luôn tìm cách phá hoại cuộc di cư của đồng bào. Những tờ bích chương và bươm bướm do Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến in và trao cho hai bên phổ biến cho dân chúng, biết về quyền tự do di tản thì không được chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Sản) phân phát.  Hơn nữa chính Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã mở cuộc điều tra đơn khiếu nại của Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà về hành động "cưỡng bách di cư".  Trong số 25.000 người Uỷ Hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị "cưỡng bách di cư" hay muốn trở về Bắc cả, như lời tố cáo láo của phe Cộng Sản.

Ngoài những người di cư vào Nam vì lý do tôn giáo (chiếm 2/3 tổng số), số còn lại là những người thuộc khuynh hướng chính trị chống Cộng Sản. Những người có liên hệ với chính quyền Pháp hay Chính Phủ Quốc Gia. Thành phần tư sản thành thị và những gia đình nông thôn lo ngại vì chính sách cải cách ruộng đất. Thêm vào đó là những người thuộc dân tộc thiểu số, đã từng theo quân đội Pháp chống Việt Minh. Trong đó có khoảng 45.000 người Nùng vùng Móng Cái và 2.000 người Thái và Mèo từ Sơn La và Điện Biên.


Tiến trình

Hàng loạt tàu há mồm (landing ship) đã đón người di cư rời miền Bắc. Ngày 9 tháng 8 năm 1954. Chính phủ Quốc gia Việt Nam của tân Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, lập Phủ Tổng Uỷ Di Cư Tỵ Nạn, ở cấp một Bộ trong Nội Các với ba Nha đại diện: một ở miền Bắc, một ở miền Trung và một ở miền Nam để xúc tiến định cư.

Thêm vào đó là Uỷ Ban Hỗ Trợ Định Cư, một tổ chức cứu trợ tư nhân giúp sức. Vì không có đủ phương tiện cho những người di cư vào Nam, nên chính quyền Pháp và Bảo Đại phải kêu gọi các nước khác giúp chuyên chở và định cư.  Các Chính Phủ Anh, Ba Lan, Tây Đức, Nam Hàn, Hoa Kỳ, Nhật, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Trung Hoa Dân quốc, Úc và Ý hưởng ứng cùng các tổ chức Unicef, Hồng Thập Tự, Catholic Relief Services (CRS), Church World Services (CWS), Mennonite Central Committee (MCC), International Rescue Committee (IRC), Care và Thanh Thương Hội Quốc tế.

Ngày 4 tháng 8 năm 1954, cầu hàng không được nối phi trường Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn trong Nam với các sân bay Gia Lâm, Bạch Mai, Hà Nội và Cát Bi, Hải Phòng ngoài Bắc được thiết lập.  Nỗ lực đó được coi là cầu không vận dài nhất thế giới lúc bấy giờ (khoảng 1200 km đường chim bay). Phi cảng Tân Sơn Nhứt trở nên đông nghẹt; tính trung bình mỗi 6 phút một là một máy bay hạ cánh và mỗi ngày có từ 2000 đến 4200 người di cư tới. Tổng kết là 4280 lượt hạ cánh, đưa vào 213.635 người.

            Ngoài ra, một hình ảnh quen thuộc với người dân tỵ nạn là "tàu há mồm" (landing ship), đón người ở gần bờ rồi chuyển ra tàu lớn neo ngoài hải phận miền Bắc. Các tàu thủy vừa hạ xuống, hàng trăm người đã giành lên. Các tàu của Việt Nam, Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Trung Hoa, Ba Lan... giúp được 655.037 người "vô Nam". "Nam" được hiểu là cả dải duyên hải miền Nam Việt Nam, từ Đà Nẵng tới Vũng Tàu. Vì số người di cư quá đông, Cao Uỷ Pháp đã xin gia hạn thêm ba tháng và phía Hà Nội đã thoả thuận, nên ngày cuối cùng thay vì là ngày 19 tháng 5 được đổi thành ngày 19 tháng 8. Trong thời gian gia hạn, thêm 3.945 người đã vượt tuyến vào Nam.  Chuyến tàu thuỷ cuối cùng của cuộc di cư cập bến Sài Gòn vào ngày 16 tháng 8 năm 1955.

Thêm vào đó, còn tới 102.861 người tự tìm đường bộ hoặc ghe thuyền và phương tiện riêng. Tính đến giữa năm 1954 và 1956, khoảng trên 900.000 – 1.000.000 người đã di cư từ Bắc vào Nam, trong đó có khoảng 700.000 người Công Giáo, tức khoảng 2/3 số người Công Giáo ở miền Bắc đã bỏ vào Nam.

         Tất cả những thành công trong hai năm đầu của chế độ được xem như là kết quả của những nỗ lực, của một chính quyền tuy còn yếu kém về mặt quản trị, nhưng lại được một sự quyết tâm cộng tác của toàn dân. Tuy nhiên những nỗ lực này, tự nó và nếu chỉ riêng nó, cũng chưa đủ để hoàn thành việc củng cố miền Nam, nếu không có sự yểm trợ tối đa và vô điều kiện của Hoa Kỳ.  Mà đặc biệt là của ba người Mỹ đã từng liên hệ chặt chẽ với ông Diệm từ trước. Đó là Hồng Y Spellman, Giáo Sư Buttinger và một nhân vật cao cấp CIA, ba nhân vật (từ đầu) đã hoán cải được quan niệm của Tổng Thống Eisenhower, vốn đã muốn bỏ rơi Việt Nam.

Trong ba nhân vật đó thì Đại tá Lansdale đóng vai trò cố vấn trực tiếp bên cạnh Tổng thống Diệm. Ông ta nổi tiếng đến độ không một nhà viết sử nào, khi nói đến sự nghiệp của ông Diệm mà không nhắc đến thân thế và hoạt động của ông ta. Đại tá Lansdale đến Đông Dương từ năm 1954, làm cố vấn phản du kích cho quân đội viễn chinh Pháp.

Hình Ảnh Di Cư Năm 1954: Từ Bắc vào Nam YouTube:

 

http://www.youtube.com/watch?gl=GB&v=7uR9Nim9wzA


VN: Cuộc Di Cư Lịch Sử 1954

 

Saturday, December 25, 2010

Nhân tâm của hai ông Lê Minh Đảo và Tú Gàn (Nguyễn Cần)




----- Original Message -----
Sent: Friday, December 24, 2010 3:46 PM
Subject: [diendanviahe] Cựu Đại tá Hà Mai Việt chỉ là người giúp đỡ sửa bản thảo cho cuốn sách của Tướng Hoàng Lạc

Lê minh Đảo và Lữ Giang Nguyễn Cần họ là những nguời bất nhân chứ không phải bất lương !  Theo truyền thống và đạo lý Việt Nam ta rất coi trọng về việc thờ phượng (cúng giỗ và mồ mả) của người thân của mình đã chết. 

Nếu LMĐ và Lữ Giang Nguyễn Cần có lương tri (thứ này qúy hiếm lắm, thứ người như Đảo như Gàn làm gì mà có được), thì họ nên tiết lộ hoặc báo tin cho người thân của Đại tá Lê Quang Tung/Lê Quang Triệu sau cái ngày hai anh em người ta đã bị giết thảm thương ấy, để thân nhân gia đình của anh em Đại tá LQT/LQT biết chỗ đến mà lấy xác họ về lo mà chôn cất tử tế và lo lễ (giỗ) cho người ta đàng hoàng.   Việc làm này rất dễ, ông LMĐ hoặc Tú Gàn nếu không muốn mọi người biết mình làm việc này thì sao họ không gởi thơ (với nặc danh) hoặc nhờ người nào đó đến nhà người thân của anh em Đại tá LQT/LQT, báo tin cho người ta biết vậy.  

Sau 47 năm trôi qua,  nếu không có bà LT khui ra và vạch mặt Lê Minh Đảo trên làng nách, thì chắc chắn hai ông... bất nhân LMĐ và Tú Gàn Nguyễn Cần kia sẽ mãi mãi căm miệng hến,  không bao giờ mở miệng ..cóc của mình ra mà báo tin xác chết của hai anh em Đại tá LQT/LQT hiện nay chôn ở đâu đâu..

Hai tên Đảo và Càn này qúa ư là bất nhân qúa phải không qúy vị ?

http://mail.yimg.com/us.yimg.com/i/mesg/tsmileys2/35.gif



--- On > wrote:

From: Vu Duc Toan vuductoan612@gmail.com
Kính chào quý vị,

Mới đây, tôi đã có ý định sẽ trích lại những trang trong cuốn "Nam Việt Nam 1954-1975 Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới". Nhưng, sau đó, tôi lại được một vị cao niên đã cho tôi biết rằng, cựu Đại tá Hà Mai Việt chỉ là người giúp đỡ về việc sửa bản thảo cho cuốn sách này, vì như nhiều người đã biết cựu Đại tá Hà Mai Việt là người cầm bút nhiều năm. Còn những điều đã viết trong cuốn sách là do Tướng Hoàng Lạc đã tìm hiểu qua rất nhiều nhân chứng, mà Tướng Hoàng Lạc đã tin tưởng, như Tướng Nguyễn Văn Là, người đã cùng có mặt tại phòng họp tại Bộ Tổng tham mưu với Cố Đại Tá Lê Quang Tung, vào ngày 1-11-1963; cộng thêm với sự hiểu biết trong suốt thời gian đã nắm giữ những chức vụ quan trọng, nên mới viết thành sách.

Nhưng có một điều đáng nói, là đối với những người cầm bút, thì một khi đặt bút viết lên những sự kiện lịch sử, thì sau đó, dù là bao nhiêu năm nữa cũng đừng bao giờ vì một lẽ gì mà phải cam tâm phủi bỏ trách nhiệm về những gì mình đã viết. Đặc biệt, là những người đã từng sống tại miền Nam tự do, tất cả đều không bị phải "viết theo đơn đặt hàng" như những người đã bị kẹt lại ở miền Bắc sau 1954.

Thực tình mà nói, dù có hơi buồn, là sau Sử gia Trần Trọng Kim, mặc dù đã có rất nhiều người đã viết về những sự kiện lịch sử, nhưng những người này họ đã đứng trong những đảng phái chính trị, hoặc  những tổ chức nào đó, họ không phải là người độc lập cầm bút, nên cách Viết của họ vẫn còn phải Lách. Ngay cả những người đã biết rất rõ về những hành vi làm giặc của một số người, nhưng họ không đủ can đảm để viết lên những sự thật ấy.

Người Việt chúng ta vốn quý sách, nhưng ít ai tin vào những cuốn "sách" của những người đã từng nhúng tay vào tội ác, của những kẻ từng cầm súng của Tây để bắn giết những đồng bào của mình, như những tên lính Khố Xanh, Khố Đỏ như Đỗ Mậu, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Nguyễn Chánh Thi ...

Vậy, như đã trình bày ở trên, tôi sẽ không trích thêm những đoạn trong cuốn sách "Nam Việt Nam 1954-1975 Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới". Vì cái điều mà nhiều người mong đợi ở Tướng Hoàng Lạc là lên tiếng về cái chết của cố Đại tá Lê Quang Tung, nhưng nay,  qua cựu Đ/t Hà Mai Việt, thì Tướng Hoàng Lạc đã cho biết thêm một nhân chứng quan trọng và khả tín là tướng Nguyễn Văn Là, người đã cùng có mặt với cố Đại tá Lê Quang Tung tại phòng họp tại Bộ Tổng Tham Mưu vào ngày 1-11-1963. Và Tướng Nguyễn Văn Là đã thuật lại cho Tướng Hoàng Lạc nghe, để viết vào sách. Đó là những điều khả tín nhất.

Ngoài ra, còn có ông Lữ Giang, tức Tú Gàn, đã viết là đã được Tướng Lê Minh Đảo cho biết về nơi chôn xác của cố Đại tá Lê Quang Tung và cố Thiếu tá Lê Quang Triệu, nhưng cả hai ông Lê Minh Đảo và Lữ Giang tứcTú Gàn đêu cùng tàn ác như nhau, vì cả hai đã biết nơi chôn xác hai vị sĩ quan này; như thế mà từ ngày 1-11-1963, cả hai lại không thông báo cho vợ con và gia đình của cố Đại tá Lê Quang Tung và cố Thiếu tá Lê Quang Triệu biết, để họ đi tìm mà cải táng cho hai vị sĩ quan này ??? Mà cho đến giờ này hai ông Lê Minh Đảo và Lữ Giang mới nói ra. Hai ông Đảo -Giang có phải là con người hay ... sắt đá ??? Hai ông có thấu được những nỗi đau đớn của vợ con và gia đình của hai vị Sĩ quan này hay không ???

Còn cái ông Bùi Như Hùng vớ vẩn này nữa, ông này còn vẽ ra cái bản đồ của nơi chôn xác của cố Đại tá Lê Quang Tung và cố Thiếu tá Lê Quang Triệu, để làm gì, vì nơi đó hiện nay có còn gì để mà tìm nữa chứ???

"Biết mà không nói là Bất Lương". Vì vậy, cả hai ông Lê Minh Đảo và Lữ Giang, tức Nguyễn Cần, tức Tú Gàn, đều đã biết nơi chôn xác của hai anh em của cố Đại tá Lê Quang Tung và Thiếu tá Lê Quang Triệu, mà kể từ ngày 1-11-1963, cả hai vẫn câm miệng Hến, cho đến bây giờ mới nói ra. Thật còn biết nói lời nào cho "xứng" hơn là hai chữ Bất Lương. Bất Lương hay Bất Nhân ???

Tôi nghĩ hãy để cho người đời, cho hậu thế, cho lịch sử sẽ phán xét hai ông Lê Minh Đảo và Lữ Giang dù sau này cả hai ông đều đã chết.

Xin cám ơn quý vị đã bỏ thời giờ, để đọc hết ý kiến thô thiển này của tôi.

Trân trọng,

Vũ Đức Toàn
 

Saturday, December 18, 2010

Sự Trả Thù Đê Hèn Và Dã Man Cái chết của Cố Thiếu Tá BĐQ TRẦN ĐÌNH TỰ Mũ Nâu Thiên Lôi kể lại
trandinhtu8.jpg
 


Trong quân sử của cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài từ 1954-1975, có khá nhiều những chiến công hiển hách của những đơn vị QLVNCH hay của từng cá nhân, người lính VNCH từ cấp Chỉ huy đến hàng binh sĩ. Hai mươi mốt năm, cuộc chiến đấu của người Miền Nam chống trả và ngăn chặn từng đợt xâm lăng từ miền Bắc Việt Nam, người anh em cùng chung huyết thống, cùng mang dòng máu Lạc Hồng, nhưng đã đánh mất tình người. – U mê với chủ thuyết không tưởng Cộng Sản, bằng vỏ khoác “thế giới Đại Đồng”, thực ra là sự tàn bạo, dã man và đê tiện mới chính là điều căn bản của bọn người man rợ đó. Và, đau đớn biết bao , từ thế hệ này đến thế hệ khác thanh niên Miền Nam cùng nhau gia nhập quân ngũ, dắt dìu nhau đi vào nơi lửa đạn, để truy diệt kẻ xâm lược.

Từng gia đình từng cá nhân mặc nhiên chấp nhận mọi thua thiệt, mọi thương đau để đem sức mình đóng góp vào cuộc chiến ngăn chặn ấy. Những mong có một ngày những kẻ gieo rắc tai ương cho dân tộc sẽ nhận ra sự phi lý, nhận ra thân phận mình đang dùng súng đạn để tương tàn, nhận chìm tổ quốc, dân tộc vào vũng lầy của máu, của thịt da chính mình và lúc đó họ cũng sẽ nhận ra được chính cuộc chiến tranh đã hủy hoại tàn nhẫn quê hương, chung quy cũng chỉ là ước muốn áp đặt một chủ nghĩa chính trị không giống ai và chính cuộc chiến chỉ là phục vụ cho thế lực và mưu đồ của ngoại nhân. Và, lúc đó họ sẽ từ bỏ giấc mộng điên cuồng, hoặc cả hai bên cùng gác súng, trở về với chính mình, cùng chung lo gây dựng lại những đổ nát, hoang tàn, chữa trị những vết thương đang hoá dòi trên thân thể Mẹ Già Việt Nam.

Thật phủ phàng và cay đắng, tất cả đã trở thành ác mộng, đã thắt cổ chết treo cho mọi mơ ước, mọi cầu mong của dân Việt. Cuộc chiến cũng chấm dứt. Tiếng súng đã thôi không còn vang vọng bên tai mọi người, nhưng chính ngay sau lúc tiếng súng vừa im lặng trên lãnh thổ, thì cũng là lúc bạo tàn, tủi nhục và nước mắt được đong đầy, ngập khắp lãnh thổ Miền Nam, đâu đâu cũng chỉ còn là tiếng than tiếng khóc, nỗi thống khổ nặng như đá tảng đè trên thân xác mỗi người , lù lù trong mỗi gia đình như một tiền oan nghiệp chướng. Những người lính VNCH phải buông súng trong tức tưởi, nghẹn uất, có người còn ngơ ngác tự hỏi : Lẽ nào ta lại quy hàng? Trong tất cả những bài học quân sự, tất cả mọi binh thư, binh thuyết và những huấn lệnh của thượng cấp, người lính chưa hề được nghe một lời nào nhắc đến sự quy hàng – Thế mà bây giờ họ laị được lệnh gác súng – người lính không ngẩn ngơ, đau uất sao được. - Tôi muốn dùng chữ LÍNH ở đây để chỉ chung cho QLVNCH, không dành cho riêng một thứ cấp nào của quân đội chúng ta.

Trong sự ngỡ ngàng, sự uất nghẹn ấy, đã có rất nhiều quân nhân VNCH tuẫn tiết, chẳng riêng năm vị tướng, thậm chí cả những người lính cũng chọn cái chết để tạ lỗi với quê hương, với dân tộc vì họ cảm nhận mình đã không tròn trách nhiệm, không tròn bổn phận của người bảo vệ tự do và độc lập, như trường hợp của một Hạ Sĩ Biệt Động Quân nhất định không cởi bỏ binh phục, đã cho nổ trái lựu đạn, để thân xác mình tan nát, trước sự bàng hoàng, kinh hãi và kính phục của hai người đồng đội và dân chúng trước cửa tiệm phở gà đường Trương Tấn Bửu; hay câu chuyện đầy nước mắt và bi hùng của năm người lính Nhảy Dù, sau khi nhận được lệnh buông súng, họ đã bàn với nhau, uống những giọt cà-phê cuối đựng trong bi-đông, hút điếu thuốc Quân Tiếp Vụ chót, ai nấy xé bao thuốc lấy cái hình người lính trong tư thế tác chiến, dưới bóng quốc kỳ, bỏ vào túi áo ngực mình.

Sau chót, họ – năm người chiến binh Mũ Đỏ - dõng dạc nói với những người dân cư ngụ chung quanh khu Hồ Tắm Cộng Hoà, ngã ba Ông Tạ: “Xin vĩnh biệt bà con, chúc tất cả bà con ở lại mạnh khoẻ và may mắn – xin bà con dang xa chúng thôi để tránh sự nguy hiểm”. Mọi người còn đang ngơ ngác, cứ tưởng anh em Mũ Đỏ nói họ tránh ra để không bị nguy hiểm do đạn giao tranh. Chẳng dè, năm người lính Dù đã ngồi xuống thành vòng tròn, lấy từ ba lô ra lá Quốc Kỳ VNCH, trải trên mặt đất. Cả năm người cùng dang rộng vòng tay, rút chốt trái lựu đạn, bỏ trên mặt lá cờ và cùng nhau gục xuống để cho tiếng nổ đanh gọn, kết thúc cuộc sống của họ – Thịt da tan nát cùng lá cờ. Nơi họ tự ải chỉ cách nhà mẹ tôi khoảng chừng 150 mét. Người dân đã khóc thưong họ, nhưng chỉ dám khóc thầm, lúc nầy kẻ thù đã ngự trị toàn Miền Nam.

Đồng một lúc với sự đầu hàng ép buộc sự buông súng không thuận ý, cũng là lúc kẻ thù – Cộng quân – bắt đầu sự trả thù, khởi sự báo oán trên sinh mệnh người lính VNCH và trên sự an toàn, hạnh phúc của dân chúng Miền Nam. Tội ác của Cộng Sản Việt Nam sổ sách nào ghi cho đủ, kể lại bao lâu cho hết; cũng như gương bất khuất của người lính, nhắc lại cho nhau nghe, giương danh tên tuổi họ cho mai hậu, tưởng chẳng bao giờ thừa dư, mà chúng ta cần phải nêu lại để tự nhắc với lòng mình niềm oán hận, nỗi thù còn hằn còn nguyên một khối kết đặc trong hồn chúng ta, khó lòng xoá nhoà, gột bỏ vì kẻ thù ta còn đấy, vẫn đang hàng ngày phủ chụp bàn tay vô luân của chúng trên quê hương, trên từng ly vuông da thịt người dân. Gưong anh dũng hy sinh, thà chết nhất định không hàng giặc trong những ngày cuối cùng của Miền Nam tự do, diễn ra khắp nơi, trên bốn vùng chiến thuật và trong tất cả mọi quân binh chủng chủ lực quân, lực lượng bán quân sự, thậm chí ngay cả anh Nhân Dân Tự Vệ sinh sống ở Cống Bà Xếp (Hoà Hưng) đã treo cổ chết nơi sau nhà để khỏi bị giặc hành hạ.

Ở đây trong bài viết này, tôi chỉ xin được đơn cử một gương can đảm bất khuất của một quân nhân BĐQ, đồng thời cũng chính anh hứng chịu sự trả thù, và, ngay cả gia đình anh – cha mẹ, vợ con anh cũng không thoát, đã bị hành hạ tinh thần liên tục và đê tiện. Sự trả thù đáng được đem ra gọi là điển hình theo quan niệm của giặc Cộng . Anh là Thiếu Tá Trần Đình Tự, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 38 – Liên Đoàn 32 BĐQ (Liên Đoàn 5 BĐQ trước kia). Trước khi kể lại sự hy sinh của chiến hữu BĐQ TRẦN ĐÌNH TỰ, xin cho phép tôi được ngưọc về dĩ vãng để viết vài điều tôi được biết về anh theo lời thuật của thân mẫu anh.

Trần Đình Tự, sinh năm 1943 ở Hà Nội, thuở nhỏ học Tiểu học Ngô Sĩ Liên (phố Hàm Long), nhà lại ở khá xa, mãi tận phố hàng Than, nhưng anh rất chịu khó lẽo đẽo đi bộ đến trường không cần ai phải đưa đón. Thân phụ Tự là công chức, làm việc trong Toà Thị Chính thành phố. Thân mẫu là giáo viên, bà dạy tại trường Tiểu học ngoại ô Hà Nội, và có lẽ cuộc đời, sinh hoạt hàng ngày của Trần Đình Tự là do sự giáo dục, ảnh hưởng sâu đậm của mẹ mình. Trầm lặng và ngăn nắp là bản tính của Tự. 1954 được 11 tuổi, Tự được cha mẹ đem vào Miền Nam theo cuộc di cư vĩ đại. Tại Sàigòn, tự học Trung học nơi ngôi trường có truyền thống giáo dục tốt đẹp và kỹ lưỡng vì trước đó trường thuộc hệ thống quản trị và chương trình dạy dỗ do Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Trường Hồ Ngọc Cẩn.

Cũng theo thân mẫu anh nói lại, ngay từ lúc mới biết làm toán, Tự đã tỏ ra khá giỏi và mỗi năm mỗi lớp, ở môn toán, Tự là số 1 không ai tranh được. Các môn học khác, Tự rất dốt, đủ đỉểm trung bình là may. Cả ngày chỉ cặm cụi làm toán, ngoài ra các môn khác học để đủ điểm mà thôi. Sau khi tốt nghiệp bậc Trung học, đậu bằng Tú Tài toàn phần ban toán, lẽ ra Tự sẽ tiếp tục ở Đại học nào đó do anh chọn và vì những lý do chưa đến tuổi nhập ngũ, trong gia đình đã có hai người anh đang phục vụ trong những cơ quan trực thuộc quy chế quân đội, dù có đến tuổi, Tự vẫn còn được huởng trường hợp hoãn dịch để trau dồi học vấn. Thế nhưng, Trần Đình Tự đã làm đơn, đem đến Bộ Quốc Phòng để nộp xin tình nguyện được gia nhập quân đội. Anh xin đi học khoá 14 Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức. Điều này đã tạo ra không khí trầm uất, phiền lòng trong gia đình Tự, thời gian hai ba tháng. Cha mẹ Tự mong mỏi ít ra Tự cũng phải đến Đại học vài năm, sau đó sẽ tính nhưng Trần Đình Tự đã làm ngược lại.

Mãn khoá, Trần Đình Tự được bổ sung tài nguyên sĩ quan cho Trung Tâm Huấn Luyện Chi Lăng ở miền Tây Nam phần. Sau sáu tháng Tự lại một lần nữa ít nhiều gây ưu phiền cho gia đình. Anh làm đơn xin tình nguyện được phục vụ trong binh chủng BĐQ. Anh được toại nguyện. Ngày tôi về trình diện TĐ 33 BĐQ ở Biên Hoà, Tự đã có mặt tại đơn vị này từ bao giờ, vì tôi nhập ngũ sau Tự ba khoá. Tôi học khoá 17 STQB/TĐ. Thật ra, những ngày đầu về đơn vị, cũng là đầu đời nữa, đơn vị tác chiến của một binh chủng, dường như có nhiều người cảm thấy e ngại khi nhắc đến. Cuộc sống của binh chủng quá nhiều vất vả, hiểm nguy. Tôi cũng thấy rụt rè, lo âu, thái độ luôn luôn băn khoăn tự hỏi mình sẽ phải làm gì ở những ngày sắp tới, chẳng những âm thầm quan sát từng cử chỉ, đi đứng của anh em HSQ, binh sĩ nhất là mọi động tác của các vị sĩ quan, tôi đều ghi nhận để học lóm hầu có thể xài cho mình sau này.

Lần đầu tôi gặp Trần Đình Tự, tôi chào anh theo quân cách, Tự không đáp lại, mặt nghênh nghênh và cổ thì quẹo qua một bên. Tôi tức uất người, nhủ thầm : tên Thiếu Úy này lối, nghênh ngang và cao ngạo. Tôi ghìm trong đầu và luôn luôn quẩn quanh với thành kiến Trần Đình Tự khinh người, dĩ nhiên, tôi cũng cảm thấy không ưa Tự…

Tôi đem chuyện này kể lại với Thiếu Úy Lê Kỳ Ngộ, vị sĩ quan đàn anh và là thầy dạy tôi trong trường SQTB/TĐ, nay cũng phục vụ trong binh chủng BĐQ, anh ở ĐĐ3/33. Tôi than phiền với anh Ngộ về thái độ ngạo mạn của Tự. Anh Ngộ cười ngất : “Đ. ơi, tội nghiệp nó, không phải Tự nó nghênh hay kênh gì đâu, niễng niễng là có tật đấy, có lẽ hồi còn nhỏ nó bị gió máy làm vẹo cổ. Bản tính Tự trầm lặng chứ không phải nó ngạo mạn. Tôi biết rõ tính nết hắn nhiều lắm.” Anh Ngộ còn khuyên tôi: “Ráng hoà nhập với đời sống quân ngũ, lâu rồi sẽ quen. Có thể Tự và Đ. sẽ thân nhau hơn người khác không chừng”.

Thời gian lần lượt qua đi từng tháng, từng năm, chúng tôi sống phục vụ trong cùng đơn vị lần lượt đã đến vị chỉ huy thứ tư. Ông Tiểu đoàn trưởng thứ tư của chúng tôi ở TĐ33/BĐQ là Thiếu Tá Tử Thần. Có nhiều đổi thay trong đơn vị, nhiều sĩ quan đồng đội đã ra đi, người thì sau chuyến hành quân đã không chịu về với anh em, người thì chuyển đến đơn vị mới. Lúc này Tự là ĐĐT/ĐĐ33BĐQ và tôi coi ĐĐ4. Hai đứa chúng tôi đã là bạn thân, đã cùng nhau dong ruổi trên các miền lửa đạn. Và, năm 1971 trong chiến dịch hành quân ngoại biên, QLVNCH mở những cuộc hành quân sang Campuchia truy diệt và tiêu hủy những căn cứ Cộng Sản VN. Tháng 2-1971, trong cuộc hành quân trực thăng vận xuống căn cứ của SĐ7CS, trong lúc giao tranh Tự bị trúng mảnh đạn pháo vào đầu, anh được chuyển về Tổng Y Viện Cộng Hoà, rời khỏi TĐ33BĐQ từ đó.

Mùa hè 1972, Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt dùng đại quân, đại pháo tấn công cường tập trên khắp các mặt trận, nặng nhất lúc đó là mặt trận Quảng Trị, hàng chục Sư đoàn chính quy vượt sông Bến Hải, vượt biên giới Việt Lào, đồng loạt tấn công thế như cuồng lưu, như biển động. Do đó Bộ TTM/QLVNCH đã điều động LĐ5BĐQ không vận ra tăng cường cho mặt trận QK1. Cũng lại tháng 2-1972, SĐ308 Tổng Trừ Bị CS, xe tăng, đại pháo tấn công điên cuồng LĐ5BĐQ, sự chênh lệch quá đáng về lực lượng đã khiến LĐ5BĐQ phải vừa đánh vừa lui dần về phía sau để chờ sự tăng viện, nhưng đến khu vực cầu Trường Phước, đoạn Quốc Lộ I cũ, LĐ5BĐQ bị lọt ổ phục kích của một Trung đoàn VC tăng cường đơn vị pháo. TĐ38 BĐQ do Thiếu Tá Vũ Đình Khang chỉ huy, Trần Đình Tự – sĩ quan Hành quân (Trưởng ban 3) nhận lệnh của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Ngô Minh Hồng phải đánh cản hậu, bằng mọi cách phải chặn đứng sức tiến cuồng bạo của địch để LĐ rút qua sông (gồm TĐ30, TĐ33 và BCH/LĐ). Tiểu đoàn 38BĐQ đã hoàn thành nhiệm vụ, riêng hai vị Sĩ quan đầu đàn của đơn vị cũng hoàn thành trách nhiệm là ở lại sau cùng để “con cái” qua sông an toàn và cuối cùng chính hai ông thẩm quyền: Vũ Đình Khang, Trần Đình Tự lọt vào tay giặc trở thành tù binh. Lý do lãng xẹt : cả hai không biết bơi, loay hoay cùng mấy người hộ tống đang “nghĩ kế” để vượt con rắn lục thì bị giặc đến cõng qua sông Bến Hải đem về trại tù Lạng Sơn.

1973 – Hiệp định Paris – ngưng bắn da beo, da cọp . Trao đổi tù binh, Trần Đình Tự lại trở về với gia đình Mũ Nâu, gắn bó đời mình với binh chủng BĐQ. Anh được thăng cấp Thiếu Tá và được cử làm Tiểu Đoàn Trưởng TĐ33BĐQ thay thế vị chỉ huy cũ, được điều động đi chỉ huy một đơn vị khác. Những ngày bão lửa, cuồng lưu của bom đạn đã qua. Hiệp định đình chiến đã ký kết, nhưng vẫn chưa có hoà bình. Giao tranh vẫn liên tục nơi này nơi kia. Liên đoàn 5BĐQ đã cải danh thành LĐ32BĐQ, cũng đã và đang cùng các LĐ/BĐQ khác bảo vệ tỉnh Bình Long. Mặt trận An Lộc, vẫn nặng nề trong âm mưu xâm lược.

Tháng 3-1975, trên toàn lãnh thổ VNCH tự nhiên vỡ ra từng mảng sau khi Ban Mê Thuột thất thủ. Hết nơi này “di tản chiến thuật” lại đến chỗ kia “tái phối trí”. LĐ32BĐQ lại một lần nữa theo lệnh, rời bỏ An Lộc để về tại phối trí, thiết lập tuyến phòng thủ bảo vệ tầm xa cho thủ đô Sàigòn, tuyến bố trí kéo dài một vòng cung từ Khiêm Hanh (Bầu Đồn) Tây Ninh kéo dài qua con Suối Cao-Gò Dầu, tạo thành một cái đê chặn đứng cơn nước lũ Cộng Sãn từ các mật khu Dương Minh Châu, Bời Lời, Bến Cát (Tam Giác Sắt) không cho con lũ này chảy về Sàigòn. Áp lực có nặng nề, cường độ giao tranh ngày càng cao, đạn pháo giã gạo trên đầu mỗi giờ mỗi tăng. Những người lính Mũ Nâu LĐ32BĐQ dưới sự chỉ huy điềm tĩnh và gan lì của Thuận Thiên (Trung Tá Lê Bảo Toàn) vẫn giữ vững phòng tuyến, chưa có khúc ruột nào bị cắt đứt hay chọc thủng và dĩ nhiên TĐ38 cùng các đơn vị bạn TĐ30, TĐ33, Đại Đội Trinh Sát 5BĐQ (do Cường Dương Tướng Quân Đỗ Minh Hưng chỉ huy – không hiểu tôi nhớ có chính xác không, nếu sai xin tha thứ). Hàng ngày, vẫn chia nhau “luộc” những con cua đồng, bộ binh chúng lần mò vào hàng rào phòng thủ thì năm yên tại đấy, không trở ra được nữa vì đã ăn no kẹo đồng.

Thế nhưng vận nước đã đến lúc phải chịu đau thương, thân phận người lính VNCH có chiến đấu dũng mãnh như sư tử đến lúc bị bức bách phải quy hàng, cũng đành phải nhẫn nhục buông súng. 11 giờ ngày 30 tháng 4 1975 tại Trung Tâm Hành Quân của Liên Đoàn, Thuận Thiên nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn :”Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực”. Trung Tá Lê Bảo Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ – 19 năm dong ruổi vào ra vùng đạn bom, 5 lần bị thương lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng như ai đang đóng ngập cái đinh 10 phân vào đầu, có lẽ lấy kéo cắt ruột cũng chỉ đau đến thế.

Ông lịm đi, người sĩ quan Hành quân phải gọi khẽ :”Trung Tá!” . Ông gượng đau để lấy lại bản lãnh. Sau cú “sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đã điềm tỉnh trở lại. Ông cầm máy gọi lần lượt từng Trưởng : TĐ30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoản, TĐ33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường, TĐ38 Thiếu Tá Trần Đình Tự. Cả ba đã đáp nhận . Trung Tá Toàn chậm rãi, ông cố giữ cho tiếng nói của mình, với âm lượng đều đặn như mọi ngày:

- Các anh vặn nhỏ máy, tôi thông báo lệnh quan trọng.- Im lặng một giây, ông nói tiếp- Các anh ra lệnh cho “con cái” buông súng – Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi. Sẽ có đại diện của “phe họ” đến để bàn giao. Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn. Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, binh sĩ. Chúng ta đã bấy lâu công tác, sống chết với nhau. Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đã chấm dứt, tôi không còn trách nhiệm với Liên Đoàn nữa. Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn, lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh bình tĩnh và chúc tất cả may mắn.

Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá LĐT, anh quay qua Đại Úy Xườong – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ

- Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh: anh nói lại cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho. Tôi không khi nào để chịu lọt vào tay tụi nó lần nữa.

Tiếp đó, anh cho tập trung BCH, Trung đội Thám Báo nói với họ là đã có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, còn ai muốn ở lại chiến đấu với anh đến giờ chót thì đứng riêng một bên. Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đình Tự đưa tay chào Đại Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai mì để tiếp tục “ăn thua” với địch. Kết cục, cuộc chiến đấu cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt tất cả những người còn sống (9 người ) giải về sân trường Tiểu Học gần đấy.

Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thoá mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo). Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên: “đến lúc này mà mày còn bướng hả, lũ uống máu, bọn tay sai, những thằng ác ôn. Mày có làm theo lệnh của ông không thì bảo. Nhân danh cách mạng ông ra lệnh cho mày cởi áo quần ngụy và nằm xuống. Chúng mày đã đầu hàng, nghe rõ chưa!”

Tự cười đểu :

- Ai đầu hàng, nhưng tao thì không. Mày nghe đây. Chúng mày mới là lũ ác ôn, chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má. Bọn mày là những tên tội đồ của dân tộc VN, hiểu không? Một lũ đê tiện!

Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát mặt Tự, giơ tay giật mạnh, bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông. Nó đâm thật mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả cơn, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự. Anh hét tiếng bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống , oằn mình giật từng cơn trong vũng máu.

Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nhìn Tự rồi nói gọn: “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”

Tám quân nhân còn lại, bị dẫn ra phía sau trường để được bắn xối xả mấy loạt AK47. Xác họ bị quăng xuống các đìa gần đó. Bọn VC dẫn nhau bỏ đi.

Thiếu Tá Trần Đình Tự, bị giặc Cộng mổ bụng chết được hơn một tuần, gia đình ở Sàigòn nhận được tin. Vợ anh tìm đến nơi anh bị hành hình để xin xác chồng. Đau đớn cho chị, xác chồng đã chẳng thấy, lại còn bị những tên VC tại địa phương lớn tiếng sỉ nhục vong linh chồng mình. Chị đã quay về Sàigòn sau câu trả lời gọn lỏn của chúng: “Chồng chị là tên ngụy ác ôn, đàn áp bóc lột nhân dân, nợ máu quá nhiều, nhân dân nổi giận trừng trị. Cách mạng rất khoan dung không trả thù như vậy. Chị đi tìm nhân dân mà xin các anh ấy!”

Chưa hết. Sự trả thù đê hèn vẫn đeo đuổi theo từng cá nhân người lính VNCH, từng gia đình mỗi người. Năm 1985, tôi được thả về từ trại tù VC. Sau vài tháng tôi đến nhà Thiếu Tá Trần Đình Tự ở đường Dương Công Trừng (Thị Nghè) thăm ba mẹ Tự. Đến nơi được biết thân phụ anh phần uất hận, phần thương con – tất cả con trai của cụ, hai người anh Tự cũng bị tập trung vào trại tù Cộng Sản, Cụ đã lâm trọng bệnh qua đời năm 1975. Mẹ của Tự, bà cụ ở lại chịu đủ điều cay đắng, thương con Cụ lập bàn thờ Trần Đình Tự bên cạnh bàn thờ chồng. Tấm ảnh thờ Tự chụp lúc vừa được vinh thăng Thiếu Tá, nên anh mặc quân phục. Chính vì tấm ảnh thờ mà cách vài ngày mấy tên Cộng Sản địa phưong như Công An, Ủy Ban Nhân Dân lò mò đến để buông những lời lẽ mất dạy, vô luân, đốn mạt nhưng lại cao giọng đạo đức rẻ tiền.

- Cách mạng rất phân minh, rành rẽ mọi điều, tình tự dân tộc đều đâu ra đấy. Tội ai người ấy chịu. Bà thờ chồng, thờ con trai điều này đáng biểu dương, nhưng tấm ảnh tên ác ôn kia thì không được để đấy, bà phải cất đi, lấy ảnh khác mà để.

Thân mẫu Tự cố dằn cơn tức uất:

- Các ông thông cảm, Ở đâu thì theo đó, con tôi đã chết thảm, xác không có để mang về. Nó chẳng còn cái ảnh nào, chỉ có một, các ông để cho tôi thờ nó. Hàng ngày được nhìn thấy chồng, con vẫn ở bên mình.

Tên VC trả lời:

- Nếu không có cái khác thì cất đi hoặc để linh động, Cách Mạng nhất trí cho bà để cái ảnh nhưng lấy mực bôi cái lon lá và bộ quần áo ngụy đi.

Mẹ Tự nhất định không chịu, cứ để tấm ảnh trên bàn thờ cho đến một lần, chúng nó đem bà cụ ra tổ dân phố để “đấu tranh xây dựng”. Bà cụ nổi doá nói tướng lên:

- “Cách mạng khoan hồng”, “Cách mạng độ lượng” cái gì ? Bác Hồ có chỉ dạy các anh ép người dân đến mức này không? Hai năm liền chồng chết, con chết thảm, con đi tù, các ông muốn tôi phải thế nào hay là các ông giúp tôi chết phứt đi cho rồi. Tôi theo chồng theo con là khỏi khổ!”

Có lẽ vì thấy ép quá, không có lợi khi sự việc đã gây xầm xì trong khu vực, bọn VC địa phương lờ dần đi, không ghé nhà Tự để mè nheo, quấy rầy bà cụ nữa. Tự được yên thân trên bàn thờ, nhưng mẹ mình laị vĩnh viễn không được thấy con, dù là nhìn tấm ảnh: Cụ đã bị mù loà, sống lủi thủi trong bóng đêm của quảng đời còn lại với mấy đứa cháu nội.

THAY LỜI KẾT:

Câu chuyện về sự trả thù đê hèn và dã man của bè lũ Cộng Sản Việt Nam là hoàn toàn sự thật. Và dĩ nhiên sự trả thù, cung cách đối xử của Cộng Sản dành cho Quân nhân QLVNCh và gia đình hoàn toàn do chính sách, kế hoạch đã được chỉ thị từ Trung Ương xuống, nhưng nếu có ai hỏi đến chúng nó lại bỏ mép đổ vấy cho địa phưong, cho nhân dân, cho cá nhân nào đó nóng giận gây ra.

Sự đền nợ nước của Trần Đình Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của Đại Úy Xường – Tiểu Đoàn Phó TĐ38BĐQ. Anh cũng đã hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh năm 1979. Tôi gặp Xường ở trại 8 Yên Báy năm 1977. Anh bị VC bóp cổ chết trong ngục thất vì sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt. Xường xuất thân từ khoá 22A Võ Bị QGVN.

Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự. Cùng bị tàn sát sáng 30-4-1975 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng bò vào nhà dân, được dấu diếm băng bó, rồi thuê xe lam chở về Sàigòn.

Thoáng đấy mà đã 25 năm, dân Việt Nam sống trong kìm kẹp, đè nén của Cộng Sản. Người lính VNCH ở quê nhà chịu biết bao nỗi ê chề, cay đắng. Tự chết 25 năm, thân mẫu của anh có còn để giữ tấm ảnh của anh trên bàn thờ ? Vợ con anh nay ở phương nào? Vì năm 1976 vợ đem con về nương náu bên ngoại.

Xin cho Thiếu Tá BĐQ TRẦN ĐÌNH TỰ một nén hương truy niệm
Mũ Nâu THIÊN LÔI kể lại

Monday, December 13, 2010

MẶT THẬT CỦA THẰNG HÈN LƯU MANH TÔ HẢI

Việt Thường


phần 1


 phần 2



Nhạc sĩ Tô Hải đi biểu tình

Mật Vụ Tô Hải



Đoàn Trung tâm Minh triết Việt: Nguyễn Khắc Mai, Lê Phú Khải, Nguyễn Huệ Chi, Hoàng Hưng…đi lạy giặc Hoàng Minh Chính


LÝ DO BÓC MẼ TÔ HẢI

Loại người như Tô Hải, được nhào nặn trong cái lò việt-gian-cộng-sản cũng khá nhiều, tương đương với số lượng đảng viên việt-gian-cộng-sản. Nhưng Tô Hải là một nhạc sĩ nên được nhiều người biết đến, nhờ sự đánh bóng của việt-gian-cộng-sản với một tên nhạc nô cực kì trung thành, đồng thời bản chất Tô Hải thích chơi nổi nên cũng luôn tìm mọi cơ hội để cho mọi người biết đến mình.

Nằm trong tay việt-gian-cộng-sản, nhiều người nhẫn nhịn chờ thời. Họ hy vọng sẽ có sự đổi đời. Cái khả năng tạo ra sự đổi đời mà mọi người gửi gấm chính là VNCH. Không chỉ những tầng lớp bị áp bức ở thành thị, mà ở cả nông thôn. Từ 1954 cho đến 4-1975, chưa bao giờ ngưng chuyện người phía Bắc tìm cách vượt tuyến vào Nam, mặc dù họ chưa hình dung ra cuộc sống ở miền Nam như thế nào, nhưng tin rằng nó phải dễ sống hơn ở Bắc. Đơn giản vì VNCH là sự trái ngược với cái gọi là Việt Nam dân chủ cộng hòa. Có nhiều gia đình ở miền Bắc lúc đó, khi thấy con bị bắt lính đã căn dặn nếu phải đi Nam thì tìm mọi cơ hội chiêu hồi. Tất nhiên là những gia đình không phải đảng viên việt-gian-cộng-sản. Còn cái lũ đảng viên thì chỉ khuyên con cái cố gắng vươn lên để có thể được kết nạp vào đảng việt-gian.

Cái mộng vượt tuyến không thành, sau khi có ngày Quốc hận 30-4-1975. Nhưng người ta vẫn nhận thấy muốn làm người thực sự thì phải thoát khỏi cái ách nô lệ của tập đoàn việt-gian-cộng-sản. Cho nên, khi có chuyện vượt biên đi tìm tự do, những người phía Bắc đã ào ào vượt biên bằng mọi giá. Cái đó khỏi cần nhắc lại.

Chúng tôi nêu sự việc này để chứng minh rằng, khi chưa có cơ hội thì người dân miền Bắc VN, bề ngoài tỏ ra an phận, nhưng lại dùng sự ngấm ngầm phá hoại sản xuất để chống lại bè lũ việt-gian-cộng-sản.

Trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ thì người ta đổi lời nhạc, làm thơ ghế đá, nhại thơ Bút Tre, viết kiểu hai mặt, hề hóa các tác phẩm kinh điển của cái gọi là chủ nghĩa Marx-Lénine, hề hóa các nhân vật việt-gian-cộng-sản, từ trung ương tới địa phương, sáng tác tiếu lâm thời đại, dùng văn vần để tổng kết kinh nghiệm chống đối "Bất bạo động, nhưng lại vi phạm luật pháp của việt-gian-cộng-sản một cách trầm trọng".  Và cũng xẩy ra nhiều vụ bãi công và vùng lên của nông dân và nhân dân miền núi, như các vụ ở mỏ than Hòn-gai, mỏ Mông dương, cảng Hải phòng, nhà máy 1-5 ở Hà-nội, nhân dân ở Ba làng, nhân dân ở Đồng văn, Mèo vạc, Hà-giang…

Thí dụ:

                 Ăn đại táo (tức ăn bếp tập thể)
                 Ở đại gia (tức ở tập thể)
                 Đi đại xa (tức đi xe bus hay xe tải)
                 Thì làm đại khái.
Hay:
                 Của ta biến thành của công
                  Nay ta ẵm lại của công về nhà.

Trong bối cảnh đó, thì Tô Hải đã cố viết hàng hơn một ngàn ca khúc để ca ngợi họ Hồ và cái đảng việt-gian-cộng-sản, cũng như làm u mê hóa nhân dân bị trị ở miền Bắc để hi sinh phấn đấu cho cái gọi là sự nghiệp cách mạng của đảng việt-gian! Có thể nói, giới nhạc nô ở miền Bắc khi đó, ít ai có khối lượng sáng tác phục vụ đắc lực và kịp thời các âm mưu bán nước, giết dân của tập đoàn việt-gian-cộng-sản, như nhạc nô Tô Hải.

Trong sinh hoạt, học tập chính trị, người ta chống đối bằng cách: "Thứ nhất ngồi ỳ, thứ nhì đồng ý". Thì nơi nào có sự tham dự của Tô Hải, hắn cũng chủ động gây sinh khí cho cuộc họp hay học tập bằng "xung phong làm quản ca và hoạt náo viên". Nghĩa là bắt nhịp cho mọi người không thể "ngồi ỳ" được, mà phải hoạt bát lên cùng hát, theo thứ tự các bài: 1) Ca ngợi đảng lao động VN; 2) Lãnh tụ ca (tức ca ngợi Hồ); Kết đoàn (nhạc Tàu, lời Việt).
Không chỉ khi họp ở cơ quan văn hóa nghệ thuật, mà ngay khi đi "thực tế để lấy vốn sáng tác", bao giờ Tô Hải cũng trổ tài hoạt náo viên và quản ca, và cũng giúp cử tọa là nông dân hay công nhân vài mẩu huyền thoại về họ Hồ, về "các lãnh tụ", đọc thơ Trường Chinh, Tố Hữu, Xuân Thủy…và vài tin về tội ác" Mỹ--Ngụy''.

Tô Hải nổi tiếng là như vậy!!!

 Và hắn được sự ưu ái của cả Tố Hữu, trưởng ban tuyên giáo trung ương việt-gian-cộng-sản, lẫn Dương Thông, tên công an gộc của việt-gian-cộng-sản, trông coi về an ninh văn hóa. Giới văn nghệ sĩ ở miền Bắc đều biết Tô Hải là mật vụ của Dương Thông từ khi mở đầu vụ Nhân văn--Giai phẩm. Sau 1960 tình hình miền Bắc phức tạp vì việt-gian-cộng-sản thực thi chiến tranh xâm lược VNCH, nên Tô Hải được Dương Thông cho nằm trong nhóm mật vụ văn hóa văn nghệ, do Lê phú Khải phụ trách, để theo rõi sinh hoạt tư tưởng của văn nghệ sĩ. Lê phú Khải tuy ít tuổi nhưng là công an việt-gian nòi.

Chúng tôi biết rất rõ về Tô Hải. Cho nên khi thấy hắn trả lời phỏng vấn của VNExodus, phét lác là "đại tá", rồi nói những chuyện lăng nhăng, nhưng cố lồng vào một ý rất NGUY HIỂM là hắn khẳng định "Không hề có lệnh cấm những người trong vụ Nhân văn --Giai phẩm sáng tác. Các ông Lê đức Thọ và Tố Hữu không cấm ai cả, MÀ HỌ TỰ CẤM HỌ!!!???" Chúng tôi đã có bài cảnh cáo cái âm mưu chạy tội đàn áp tư tưởng của việt-gian-cộng-sản do Tô Hải đang thực thi một cách tinh vi. Cũng xin quí độc giả lưu ý là, trong vụ Nhân văn --Giai phẩm, rất nhiều người bị trấn áp hoặc nặng hoặc nhẹ, còn Tô Hải, dù toàn bộ gia đình đi Nam, mà hắn không những thoát hiểm qua rèn cán chỉnh quân, thoát vụ đấu tố cải cách ruộng đất, thoát vụ chỉnh đốn tổ chức, thoát cách mạng văn hóa tư tưởng và chỉnh huấn mùa xuân (1960) cũng như các vụ gọi là ôn nghèo nhớ khổ cho đến chống chủ nghĩa cá nhân. Không chỉ thoát mà còn được tin cẩn cho ngồi làm cái việc gọi là kiểm duyệt ở Nhà xuất bản Âm nhạc, mà còn nằm trong cấp ủy đảng việt-gian-cộng-sản. Chỉ bấy nhiêu đủ biết hắn đã tự nguyện bolchevik hóa và trung thành với cái đảng việt-gian ra sao, nghĩa là góp sức tích cực và tự nguyện cho sự nghiệp bán nước và giết nhân dân cả hai miền Nam--Bắc của đảng việt-gian-cộng-sản.

Những diễn biến ở miền Bắc VN đã có các sách của cụ Hoàng văn Chí, cũng như những sách của nhà văn Xuân Vũ bật mí từ trước 1975. Và từ sau 1975 đến nay (2009), văn nghệ sĩ, ký giả có bị cấm đi "Lề trái" không, chắc không ai là không biết. Vậy Tô Hải phát biểu như trên thì phải hiểu hắn có nhiệm vụ gì khi đóng vai Thằng Hèn!

Thấy qua mặt được người Việt hải ngoại, vì không thấy ai lên tiếng hưởng ứng sự cảnh cáo của tôi. Không những thế, nhiều trang điện báo, một số người làm công trong hệ truyền thông của ngoại quốc còn trích những bài viết trong blog của hắn, mà VNExodus đi tiên phong, để quảng bá như một hiện tượng "phản tỉnh của giới văn nghệ sĩ"trưởng thành trong vòng tay của tổ chức việt-gian-cộng-sản!???

Cuối cùng thì "Hồi ký thằng hèn" của Tô Hải, được quảng cáo ầm ĩ và long trọng ra mắt sách tại phòng họp báo Người Việt, do Đỗ ngọc Yến sáng lập.

Nên nhớ, nhóm báo Người Việt làm cái gì đều mang một mục đích chính trị. Và cái mục đích chính trị đó là gì, có lợi cho ai trong tình hình hiện nay, chắc quý bạn đọc đã có quá nhiều bằng chứng để kết luận.

Theo chúng tôi, thì đây là một "sáng kiến mới"như chỉ thị của ban bí thư việt-gian-cộng-sản chỉ đạo việc thực thi nghị quyết 36 ở hải ngoại, rằng "phải có sáng kiến thích hợp với tình hình thực tế".

Thực tế tức là dùng mọi thủ đoạn nhằm thực thi "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù",trên cơ sở đó mà "hòa gỉải--hòa hợp" (tất nhiên là bị hòa vào để đám nô lệ của việt-gian-cộng-sản thêm đông và thêm nhiều nô lệ có khả năng làm ra nhiều USD cho chúng).

Vinh danh tên Tô Hải, kẻ đã phục vụ đắc lực cho bộ máy chuyên chính về tư tưởng của việt-gian-cộng-sản, từ trẻ tới già mà chỉ dựa vào cuốn hồi ký được viết và cho ra đời vào cái lúc sắp chết, hợp khẩu vị của mấy người thiếu thông tin, cho là hắn đã OK, thì chính là đã Quên quá khứ của hắn, Xóa bỏ hận thù về những tội ác trên lĩnh vực tư tưởng của hắn đối với nhân dân và Tổ quốc VN.

Rõ ràng những kẻ đang tiếp tay với hắn ở hải ngoại, đang làm cái việc lôi kéo những người cả tin, giàu lòng nhân ái để hòa giải và hòa hợp với hắn, tức nhạc nô việt-gian-cộng-sản Tô Hải. Đây là bước thí điểm kiểu mới.

Đấy là lý do chúng tôi viết bài "Tô Hải: thằng hèn hay tên lưu manh?". Chúng tôi cũng chỉ định dừng ở mức cảnh cáo mà thôi, nhưng Tô Hải nghĩ rằng có thể dựa vào lũ lưu manh chính trị, truyền thông con buôn, trí thức theo định nghĩa của Mao trạch Đông, để cố tình dấn sâu vào con đường bút nô cho việt-gian-cộng-sản vào cái lúc đang chuẩn bị vào áo quan.

Việc làm của Tô Hải dù vậy cũng chỉ mang lại chút xíu kết quả. Nhờ cuốn sách đó mà đã khiến gia đình của hắn "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù' và nay thì đã "hòa giải--hòa hợp". Chẳng thế còn vinh dự vì cái đứa con bất hiếu, bất mục đó lại đem vinh dự cho gia đình vì được một số "nhạc sĩ kèn đu đủ"quây quần hòa nhạc chào mừng minh chủ Tô Hải. Còn Tô Hải thì được đủ cả, nào là được khen vì thực thi nghị quyết 36 thành công, được lũ nâng bi xúm vào dùng lưỡi liếm sạch những dơ dáy của quá khứ, lại giúp lũ lưu manh hải ngoại móc túi người Việt ở hải ngoại để cùng ăn chia, chưa kể từ nay sẽ còn được trợ giúp của họ hàng.

Với sự thông minh vừa đủ để làm nhạc nô và lừa đảo vặt, Tô Hải nghĩ rằng đủ can đảm và đủ lực lượng hỗ trợ để liều mạng, kiểu cùi đâu sợ lở, viết một bài xuyên tạc sự thật, nhằm bôi nhọ Việt Thường. Hắn đã ngu muội mà quên rằng Việt Thường đã bao lần cứu hắn. Chắc hắn không nghĩ rằng Việt Thường có cứu hắn là cốt để trong thân xác tập đoàn việt-gian-cộng-sản chỉ toàn sán, lải. Còn hắn lại u mê trước những tờ USD để quên rằng Việt Thường như hoa sen, tuy nở trong đống bùn việt-gian-cộng-sản nhưng không hề hôi mùi bùn như hắn. Và biết hắn còn hơn hắn biết hắn, vì như hắn khẳng định rằng Việt Thường "tài "ma xó"chuyện gì cũng biết".


TÔ HẢI THỰC SỰ LÀ THẰNG HÈN, MÀ CÒN LÀ…

Chúng tôi đang có trong tay hai bản bài viết của Tô Hải, xuyên tạc sự thật để bôi nhọ chúng tôi. Một của Lý công Đạo, trên diễn đàn Thảo luận 9. Có lẽ Lý công Đạo là người đầu tiên post bài này. Nhưng có thể trong lòng còn chút công đạo, hoặc tinh ý đã phát hiện ngay từ đoạn đầu bài viết của Tô Hải là lưu manh loại ngu, vì già, óc đã lão hóa, nên Lý công Đạo gắn liền bài của Tô Hải với bài của tôi trả lời thắc mắc của quí độc giả Sài-gòn Nhỏ, là Ông NOG, cùng với lá thư của Ông NOG. Còn bản khác là bài của Tô Hải trên Take2Tango.

Một người lương thiện khi đọc bài bôi bẩn của Tô Hải, không thể nào không đặt dấu hỏi, vì sao Tô Hải lại chỉ kêu gọi phổ biến bài viết của hắn ở hải ngoại, đặc biệt nhấn mạnh đến Take2Tango và VNExodus, mà hắn KHÔNG DÁM PHỔ BIẾN CHO CÁC FRIENDS của hắn ở trong nước???

Phần lớn ở hải ngoại chỉ biết về Việt Thường và Tô Hải qua sách và trả lời phỏng vấn. Còn trong nước mọi người lớn tuổi thì khá nhiều người biết Việt Thường là ai và Tô Hải là đứa như thế nào. Cho nên nếu trong nước biết càng rộng rãi thì bộ mặt không chỉ hèn mà còn lưu manh và vô ơn của Tô Hải sẽ lộ ra tới hải ngoại.


TÔ HẢI LƯU MANH

Hè năm 1959, khi đó tôi còn vừa là phu bốc vác ở khu Lương Yên, vừa là giáo viên dạy học cho cán bộ, công nhân lớn tuổi. Trên đường đi làm về, thấy đồn công an việt-gian-cộng-sản khu Hai Bà, lúc đó còn ở ngã ba Lò Đúc --Hàng Chuối, đông người tụ họp. Tò mò vào xem thì được biết Tô Hải (lần đầu tôi biết mặt hắn), trên má còn hằn vết tát rõ 5 ngón tay, đang to mồm la lối rằng phản động dám đánh cán bộ cách mạng, đề nghị công an phải có biện pháp cứng rắn. Hai mắt lồi như cá vàng lại lé, mồm cá ngão, hàm răng hô không được vệ sinh cho lắm, la hét văng cả nước miếng. Chắc vì vậy nên tên công an không ưa nhưng cũng chiều lòng nói sẽ đưa ra tổ dân phố. Nhìn xem" phản động" là ai, thì hóa ra đó là cô Hải, nhà ở bên kia đường, trước 1954 từng là người đẹp nổi tiếng ở trường Trưng vương, cùng với vợ của gs Đinh gia Khánh. Cô ấy có chồng, một sinh viên y khoa năm thứ nhất, bị đuổi khỏi trường nhân vụ Đất Mới, phải đi làm hợp tác xã. Tô Hải bám theo tán tỉnh cô ấy, và còn ỷ là cán bộ cách mạng, đóng bộ áo lính ngụy cộng-sản 4 túi, dám tới tận cửa nhà vợ chồng cô ấy giở trò lưu manh và đã lãnh một tạt tai.


TÔ HẢI VÔ ƠN

Xin kể vài thí dụ: 1) Năm 1967, tôi có tổ chức một chuyến đi Cao bằng, do yêu cầu của một số anh chị em thân quen, gồm nhạc sĩ Tạ Phước và Phạm văn Chừng, thứ tự là hiệu trưởng và trưởng phòng giáo vụ của trường âm nhạc; các giáo viên của trường âm nhạc là Nguyễn Tuấn, piano; Như Chung (vợ ca sĩ Trần Hiếu), nhạc cụ dân tộc; Mỹ Bình, thanh nhạc, ca sĩ Trần Thụ của đài phát thanh và nhạc sĩ Văn Cao.

Biết tôi có quan hệ tốt với các tỉnh nên trên đường về, nhạc sĩ Phạm văn Chừng nhờ tôi giới thiệu với Hưng Yên vì sẽ cùng một số nhạc sĩ đi thực tế sáng tác. Sau đó độ hai tháng, một hôm nhạc sĩ Phạm văn Chừng tìm tôi hớt hải bảo đi Hưng Yên ngay có chuyện khẩn và nhất định chỉ nói khi tới Hưng Yên. Đến nơi mới biết, tên chó chết Tô Hải bị công an huyện Ân Thi bắt giữ vì đang đêm mò vào phòng ngủ con dâu của trưởng công an huyện (chồng đi lính). Câu chuyện có thể rất tai tiếng cho cả đoàn nên với tư cách đoàn trưởng, nhạc sĩ Phạm văn Chừng năn nỉ tôi cứu Tô Hải. Nhờ quen trưởng ty công an tỉnh, tôi đã cứu Tô Hải thoát nạn. Trước mặt Phạm văn Chừng, Tô Hải đã chắp tay vái tôi thề "sống Tết, chết giỗ". Vậy mà nay hắn mỉa mai tôi trong bài của hắn là "la cà và làm quen" với "mấy ông tướng quân đội, công an mê tín dị đoan"!? Nếu tôi là loại người như hắn mô tả thì làm sao họ lại trân trọng và có thể cứu hắn không chỉ khỏi tan nát sự nghiệp mà tan nát cả gia đình là cái chắc. Đã có chuyện tỉnh ủy việt-gian-cộng-sản Cao Bằng bắt giam nhóm phóng viên Cứu quốc do Thái Duy (tức Trần đình Vân) cả mấy tháng, trong khi đó lại mời đoàn tôi nói ở trên đi thăm Cao Bằng, thác Bản Giốc, chẳng lẽ cũng do la cà xem "tử cung" như ngôn ngữ của tên Tô Hải, hay chỉ là làm việc vặt ở báo Tổ quốc mà vỗ ngực tự phong là "nhà báo"!? nên tỉnh ủy Cao bằng phải sợ? Thứ nổi danh như Thái Duy, chúng còn giam rồi tống cổ mà không cho xe khách bán vé, báo Cứu quốc phải cho xe lên đón về, cả nhóm tí chút chết đói. Từ đó văn nghệ sĩ, báo chi hiếm có người đi Cao Bằng!

2) Sau 30-4-1975, Tô Hải vào Sài-gòn tìm gia đình. Chẳng biết tìm gia đình ra sao mà CHÍNH HẮN bị "nổ ống khói" (ngôn ngữ của Tô Hải). Người bạn thân của tôi, ăn lương thứ trưởng, mà Tô Hải nêu trong bài đã vì hắn mà chạy cả ngày mới tìm được tôi. Lúc đó tôi còn ở tạm tại nhà của Ls Trương như Tảng, ở đường Tú Xương, vì vào công tác chứ chưa ở thường trú. Tôi và người bạn đã phải dùng xe hơi của Ls Trương như Tảng đưa hắn đi cấp cứu ở bệnh viện Vì Dân (Ngã tư Bẩy Hiền). Nhưng bậc lương của hắn chưa đủ tiêu chuẩn được chữa ở đó. Tôi phải bàn với một bạn khác của tôi là Bs Tòng (cùng học A. Sarraut), làm ở bệnh viện Việt-Xô (Hà-nội), được cử vào đoàn tiếp quản bệnh viện Vì Dân, để đánh tráo bằng dùng tên người bạn ăn lương thứ trưởng đăng ký chữa bệnh, nhưng bệnh nhân lại là Tô Hải.
Thế mà nay hắn vô ơn với tôi mà còn vu cáo cho cả người đã cho hắn mượn tên để đủ tiêu chuẩn nằm ở Vì Dân, nếu không sẽ bị tống đi bệnh viện Bình Dân thì ai giúp hắn giữ bí mật cái bệnh khốn nạn đó.

Còn nhiều thí dụ nữa, nhưng thôi,tự bài bôi bẩn của hắn đã vạch mặt hắn. Hơn nữa hắn cũng đã nhận là thằng hèn. Vì thằng hèn đã nhận tội người ta có thể tội nghiệp mà tha thứ. Cho nên hắn không dám nói đến những trò lưu manh của hắn. Vì khó ai có thể tha thứ một tên lưu manh, lừa đảo và vô ơn, cho dù nó không nằm trong băng đảng việt-gian.


MỘT VÀI CHUYỆN KHÁC

Khi chính thức thường trú ở Sài-gòn, chúng tôi ở căn hộ trên đường Tự Do (tức Đồng Khởi) từ 1976. Từ đó cho đến khi ra khỏi tù (1987), hết hạn quản chế, 1991 tôi cùng gia đình qua Anh quốc. Với sự giúp đỡ của chủ tịch ủy ban đối ngoại Viện Nguyên Lão, Lord Ennals, chúng tôi được chấp nhận là Tị Nạn Chính Trị. Tôi là tù gì và giấy  ra tù ghi tội gì, không chỉ anh em chung trại tù Z30D biết, mà hầu hết người quen tôi đều biết.

 Không chỉ các bạn ở miền Bắc biết chưa bao giờ tôi thay đổi chỗ ở, ngay bạn ở miền Nam, như ông Huỳnh thành Vị, chủ nhiệm báo Đồng Nai, hiện nay đang ở Paris, cho đến anh em chung tù như vợ chồng thiếu tá Lê hữu Cương, vợ chồng thiếu tá Trình Khai, trung tá Trần văn Tự, trung tá Thái đầu bạc, cho đến vợ chồng nhạc sĩ Nghiêm phú Phát. Và ngay chính cả đại úy Phan nhật Nam! Vậy mà tên lưu manh, vô ơn Tô Hải, khoe con ông cháu cha, nhạc sĩ lớn lại không bằng một thanh niên nông dân bình thường, cùng quê với Tô Hải. Anh ta hiện còn sống và đang giữ chức Giám đốc Nhà hát Chèo Hà-nội, tên là Nguyễn công Đài. Khi tôi bị tù cho đến khi ra tù lúc nào cũng thăm hỏi. Tại sao?
Nguyên anh ta là công nhân lưu động, kéo đường dây điện thoại liên tỉnh. Trên đường công tác, tôi phát hiện anh Đài là một người có tài kéo nhị, chỉ bằng học mót. Tôi đã giới thiệu anh ta với người bạn là Cao kim Điển, giám đốc trường Nghệ thuật sân khấu kiêm Đoàn trưởng Đoàn Chèo Hà-nội. Rồi lại lo với giám đốc và bí thư đảng ủy việt-gian-cộng-sản nơi anh ta công tác để họ chấp nhận cho chuyển biên chế và lo chuyển thành hộ khẩu Hà-nội. Để được cái gì? Chẳng vì cái gì cả . Tôi đã trải qua cảnh bị áp bức nên tôi rất thương người cùng cảnh khi xưa, mà giúp. Trường hợp anh Đài chỉ là một trong hàng trăm thí dụ ở Bắc, trước 1975. Những sự tận tình giúp nhau trong hoạn nạn đã khiến mọi người thương, dù chỉ là thằng phu khuân vác và chỉ là phóng viên hạng bét của tờ báo hạng bét.

Xin đưa thêm vài thí dụ: Chắc ai ai cũng biết câu chuyện bi thảm của Ls Nguyễn mạnh Tường. Nhưng ít ai biết rằng con của ông ấy cũng bị trù dập. Đó là cô Nguyễn đoan Dung, xin vào làm công nhân ở Nhà máy bưu điện truyền thanh cũng khó khăn. Và, cũng nhờ quen biết với giám đốc nơi đó mà tôi giúp cô ấy được vào làm việc.

Bà Xuân Như, em gái của Xuân Diệu, vợ của Cù huy Cận (mẹ của Ls Cù huy hà Vũ), khi bị chồng bỏ để lấy vợ trẻ, đã gặp biết bao khó khăn. Gs Bùi Quế ở bộ giáo dục, cùng quê Hà tĩnh với bà ấy, là một bạn thân của tôi đã đưa bà ấy đến nhờ tôi giúp đỡ. Dù tôi rất ghét cả Cù huy Cận lẫn Xuân Diệu, nhưng tôi đã giúp bà ấy xin vào học ở trường Đại học Y khoa Thái bình và còn giới thiệu để trong suốt mấy năm học, hàng tuần đi đi, về về Hà-nội--Thái bình, bằng tàu chạy sông, mang tên Giải phóng, được miễn phí.

Một số anh em văn nghệ sĩ ước ao được đi thăm Kim sơn, Ninh bình nhờ tôi giúp đỡ. Nhờ quen thân với Phạm minh Do, chủ tịch huyện Kim sơn, tôi đã đưa anh chị em đi chơi, được ăn ở tại nhà giao tế như chuyên gia, kể cả phương tiện đi lại, không mất một xu lại còn được quà kỷ niệm tặng mang về. Trong số đó có cả nhà văn Đào Vũ, mà tên lưu manh vô ơn Tô Hải có nhắc đến trong bài.

Một số anh em hạ phong khác, biết tôi có quan hệ tốt với tỉnh ủy và ủy ban Thái bình, nên cũng nhờ tôi tổ chức cho đi nghỉ hè và thưởng thức cái thú đi tàu thủy trên sông., tất cả đều miễn phí. Tôi đã thỏa mãn anh chị em, được đi bằng tàu Giải phóng, được ăn ngủ tại nhà giao tế theo tiêu chuẩn chuyên gia. Ngoài việc ủy ban tỉnh chiêu đãi, lại được trường đại học Y khoa Thái bình chiêu đãi một bữa thịnh soạn. Trong đoàn có cả hai vợ chồng nhạc sĩ Văn Cao, các nhà thơ Quang Dũng, Ngô quân Miện, cụ Võ an Ninh, các nhà văn Kim Lân, Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Văn Ký, các giảng viên trường nhạc Tạ Bôn, Nguyễn Tuấn, Mỹ Bình, các nhà báo Trần Đĩnh, Chính Yên (đều dính vào vụ xét lại), Việt Sơn, Viết Linh …

Tôi cũng có quan hệ tốt với tất cả các Công ty vận tải, Công ty ăn uống, Công ty thương ngiệp, Lương thực v.v…nên đã giúp những anh em bị thiếu ăn, như Quang Dũng, Chính Yên… chí ít một tuần cũng được ăn cồ một lần, do các công ty, cửa hàng…nhà máy, tổ chức thi đua hay sơ kết hàng tháng, hàng quí v.v…đều dành cho tôi vài bàn để chiêu đãi bạn bè.

Tôi rất thương anh em nghệ sĩ gặp hoạn nạn và luôn hết mình giúp trong phạm vi có thể, như tìm chỗ dịch sách báo cho từ Trần Dần, Trần minh Tân, Đoàn văn Chúc, Đặng đình Hưng…cho đến cả Dương Tường (hãy còn sống đấy).

Chính tại căn nhà ở đường Tự Do, nhiều người đã đến thăm tôi, như vợ chồng nhạc sĩ Nguyễn xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Hồng Đăng, Huy Thành (đạo diễn điện ảnh, phó tổng thư ký Hội Điện ảnh), Phạm văn Khoa (nguyên cục trưởng điện ảnh, kiêm đạo diễn), nữ nghệ sĩ Nguyệt Ánh (đạo diễn kịch), họa sĩ Diệp minh Châu, Nguyễn Đĩnh (phó tổng giám đốc FaFim), Hồng Phi, Lưu công Nhân, vợ chồng nhạc sĩ Văn Cao, Trần Dần, Dương Tường, Trần Đĩnh, Chính Yên, Thép Mới, Lửa Mới, Xích điểu Trần minh Tước, các họa sĩ Phan kế An, Mai văn Hiến, Trần đông Lương (vua tranh lụa), Bùi xuân Phái, Song Văn, các nhà văn Nguyễn Khải, Lê Lựu, Bùi bình Thi…, các Bs Nguyễn mạnh Hà, Ngô văn Quĩ (phó giám đốc bệnh viện Nguyễn văn Học sau năm 1975), Gs bác sĩ Trương công Quyền (phó giám đốc trường Đại học Y khoa Sài-gòn sau 1975), Phương Nam (phó giám đốc sở ngoại vụ Sài-gòn), Lê Bình (phó giám đốc sở giao thông Sài-gòn), nhà thơ Hải Như (bạn thân của Bùi Tín, và trước ngày qua Paris làm nhiệm vụ đặc công đỏ, Bùi Tín đã ngủ tại nhà Hải Như và tiết lộ chút bí mật để Hải Như khỏi lầm là Bùi Tín "phản đảng") và v.v…

Khi ra tù về, biết bao người trong số trên cũng đến thăm hỏi, kể cả Thép Mới, Từ Chi, Thái bá Vân, Vũ Hải (báo Nhân Dân), cụ Võ an Ninh…và ngay Dương thu Hương, từ Hà nội vào Sài-gòn, cũng đến thăm tôi ngay ngôi nhà ở đường Tự Do, kể cả Vũ thư Hiên. Thế mà tên lưu manh Tô Hải bịa chuyện tôi vào Chợ lớn đặt đại bản doanh?

Có một sự thật là, bao lần tôi giúp Tô Hải cũng vì người khác nhờ. Còn trông cái tướng của hắn, dù không biết coi tướng hay "tử cung"(ngôn ngữ của Tô Hải), thì cũng biết hắn vốn được sinh ra là để làm việt-gian hoặc công việc bất chính, cho nên hắn chưa bao giờ dám bén mảng tới nhà tôi, dù ở Hà-nội hay Sài-gòn.

Tô Hải còn hai bí danh mà chắc cái tính lưu manh đã át cái tính hèn, nên hắn không khai trong hồi ký. Đó là
HẢI KHOAI LANG, để tránh lộn với hai người cũng tên Hải, nổi tiếng là uyên bác ở Hà-nội thời gian đó, là Hải Bay(ở Văn hóa đối ngoại) và Hải Béo (ở Viện Nghệ thuật). Vì tiếng Pháp, khoai lang là Patate (đọc là pa-tát). Bởi đi dê gái, Tô Hải bị nhiều lần ăn bạt tai nên bị riễu bằng cái tên đó, và đã từng bị một bà mẹ nhiếc hắn là "cóc tía đòi ăn thiên nga", nên hắn cũng có bí danh HẢI THIÊN NGA!

Tôi rất không muốn kể ra, nhưng vì muốn một lần vạch mặt những quân đê hèn bất lương không dám tranh luận mà dùng võ bôi bẩn hạ tiện, đem dạ tiểu nhân đo lòng quân tử!!!

Ngày mới vào Sài-gòn, nghe tên thư ký ủy ban quận 10, báo cáo vụ bắt hai con gái của ông Quận trưởng cũ của Quận 10, vì sinh kế đã phải đứng đường để nuôi em. Nghe xong, tôi rớt nước mắt thầm, xin được bảo lãnh cho hai cô gái tội nghiệp đó, nhưng tên thư ký cho biết hình như đã đưa sang giam ở quận 5, nên không có thẩm quyền giải quyết. Tôi mò sang ty an ninh nội chính quận 5, vì ở đó phó ty là người quen từ Hà-nội, nên cho tha hai chị em cô đó ra. Nếu đã ra được hải ngoại, chắc đến nay hai cô đó mới biết ai là người cứu mình. Đấy cũng chỉ là một trong trăm vụ tôi đã cố gắng để giúp cho đồng bào miền Nam của tôi cũng thân thương như đồng bào miền Bắc vậy.

Chính phong cách sống trong sáng đó đã khiến tôi có nhiều bạn trong đủ mọi giới, ở khắp mọi nơi từ thành thị đến làng mạc; từ đồng bằng đến miền núi. Ai cũng sẵn sàng giúp tôi vì biết tôi đang vì người khác chứ không phải cho mình. Ngay thằng hèn Tô Hải cũng được tôi cứu giúp nó bao lần. Nhưng xem ra cái chất bolchevik đã bám rễ vào từng tế bào của nó. Nằm chờ chết mà vẫn hám danh hám tiền, vẫn cái lối nói ba trợn "mình mình, tớ tớ" của một tên lưu manh được tôi luyện công phu trong lò luyện nhân sự của việt-gian-cộng-sản!!!

Khi tôi còn chưa đi tù, dù tôi kém Tô Hải đến 7 tuổi, nhưng lúc nào tên hèn Tô Hải cũng gọi tôi là "ông anh" và xưng là "thằng em". Chưa kể tôi là ân nhân của hắn mà vì giữa tôi và hắn là hai thái cực. Mỗi lần gặp Bảo định Giang và Lâm duy Thông (cùng là ủy viên đảng đoàn văn nghệ việt-gian), Tô Hải gù hẳn lưng lại xưng em ngọt sớt, cứ như anh em ruột vậy. Và nó ngạc nhiên thấy tôi "anh anh, tôi tôi" với hai tên đó, mà cả hai đều lộ vẻ vì nể. Ngay với tên Dương Thông cũng vậy. Tô Hải chào kính cẩn mà nó chẳng thèm đáp lại, dù Tô Hải là mật vụ của nó. Trong khi đó, Tô Hải thấy nó chủ động chào và tôi chỉ hơi hất hàm. Tôi chơi với cấp trên của nó,là Phạm Kiệt, Trần Quyết, Hoàng Thao và Mai văn Mạc, cho nên tỏ vẻ coi thường nó để trả thù cho anh em văn nghệ sĩ bị nó làm hại.


VÀI ĐÒN HỎA MÙ KHÁC TRONG BÀI CỦA TÔ HẢI

Thứ nhất: Biết tâm lí ở hải ngoại hiện nay ghét Tàu. Tô Hải mở đầu bài bằng nói Cha tôi là "người Việt gốc Hoa". Nhưng hắn không khẳng định là "gốc Hoa" mấy đời. Giả dụ ngay đời Cha tôi, thì là 50% máu Tàu, đến đời tôi, đương nhiên là còn 25% máu Tàu. Chúng ta hẳn đều biết Lý Khánh Vân là nhà sư Tàu đời nhà Đường, mà theo truyền thuyết thì Ngài là thân sinh ra Đức Lý công Uẩn, người dựng ra vương triều nhà Lý ở VN. Như vậy là Lý công Uẩn có 50% máu Tàu, gấp 2 lần của tôi . Đấy chỉ là một ví dụ. Vì chính tôi cũng không dám cam đoan mình có phải gốc Hoa không, và từ bao đời. Chắc chắn trong chúng ta cũng vậy, khó ai dám quả quyết trong huyết quản của mình không có chút pha tạp. Ngay như cư dân ở vùng Hạc Trì có hai ngón chân cái giao nhau, nên có tên là "người Giao Chỉ", đến nay lác đác xuất hiện ở phủ Lâm Thao và huyện Tam Nông(Phú Thọ), trong khi cả mẹ và cha đều không có ngón chân cái giao nhau. Vậy có ai dám nói rằng cái người có ngón giao chỉ đó là không bị lai tạp?

Thêm nữa, một thí dụ là Mạc Cửu, Tàu 100% và Tôn đức Thắng, Việt 100%, thì chúng ta trân trọng ai và thù ghét ai? Căn cứ vào cái gì mà trân trọng và thù ghét?

Cũng như thế, giả dụ ngay bản thân tôi là Tàu 100%, nhưng tôi không ngưng nghỉ chống việt-gian-cộng-sản một cách liên tục, không vì Danh Vọng mà cũng không vì Lợi Lộc, suốt từ 1956 cho đến nay là 2009 vẫn không ngưng nghỉ. Còn Tô Hải, giả dụ là Việt Nam 100%, nhưng hắn đã tự nguyện vứt bỏ cha mẹ, anh em, từ 17 tuổi, tức 1944, cho đến tận 1986 (giả dụ cứ tin như hắn khoe là về hưu non để khỏi phải làm theo chỉ thị), khi đã 64 tuổi, mới ngưng phục vụ cho việt-gian-cộng-sản. Nghĩa là, cho đến nay, tôi có 63 năm "chống cộng", còn Tô Hải có 42 năm "phục vụ tận tình cho cộng"(giả dụ tin lời khai của hắn).

Xin dành để bạn đọc cả trong và ngoài VN nhận xét.

Thứ hai: Tô Hải đưa chuyện hoa khôi tiệm sách thì hắn cố tình lộn địa chỉ để đầu độc dư luận. Chuyện này nên hỏi đặc công Nguyễn minh Cần, mà tôi đã khui ra trong bài viết, có tên "Lũ con buôn vịt trời". Xin không nhắc lại ở đây vì quá dài. Mong quí bạn đọc vui lòng tham khảo bài đó có lưu trữ ở Hồn Việt UK online và Việt Thường online.

Thứ ba: Tô Hải cố tình cho thông tin sai rằng tôi làm việc vặt ở báo Tổ quốc (là báo của đảng Xã Hội)nhằm cho phù hợp với việc hắn bịa rằng hắn KHÔNG CHƠI với tôi (vì thế mới lộn báo Độc lập với báo Tổ quốc). Nhưng vốn chỉ có khả năng làm chó săn cho việt-gian-cộng-sản, cho nên hắn đã ngu mà viết rằng, những điều hắn biết về tôi là do "Bạn của Hùng Văn cung cấp, thậm chí những người ở cạnh nhà của Hùng Văn từ thời Pháp còn tạm chiếm…". Thật là vô lý! Bạn ở cạnh nhà tôi từ thời Pháp tạm chiếm, nghĩa là mấy chục năm chơi với nhau mà không biết tôi làm gì, ở nơi nào??? Và tự nhiên cung cấp những việc bịa đặt cho Tô Hải? Để làm gì? Như vậy là Bạn lâu năm hay Kẻ thù lâu năm? Sao Tô Hải không dám nêu đích danh cho thêm thuyết phục. Một con chó khôn cũng không thể thành người nữa là Tô Hải chỉ là một con chó già và ngu, cứ nghĩ ai cũng ngu như hắn để bày đặt viết lách! Chính Vũ thư Hiên ở cách nhà tôi độ 100 mét đó.

Thứ tư: Khi Tô Hải dùng khái niệm "thời Pháp còn tạm chiếm" (nghĩa là thời kì trước khi việt-gian-cộng-sản vào Hà-nội) vào cái lúc này (2009), cái lúc mà hắn đã hối hận để viết hồi kí, tự nhiếc là thằng hèn, nghĩa là đã tỉnh ngộ thân phận quân khuyển của việt-gian-cộng-sản, vậy mà hắn lại chưa nhận thức được rằng, cái mà hắn gọi là "thời Pháp còn tạm chiếm" là trò tuyên truyền lưu manh của việt-gian-cộng-sản, cố tình bôi nhọ lực lượng, mà chúng ta quen gọi là "Quốc Gia". Giai đọan đó, Pháp đã buộc phải trao trả Độc Lập cho VN, và sự có mặt của Pháp chỉ trong vai trò đồng minh, để cùng chống tập đoàn việt-gian-cộng-sản đang dùng người VN chết cho âm mưu bành trướng của thực dân đỏ Nga-xô và Tàu cộng! Hà-nội ở giai đoạn đó là thuộc về người Quốc gia (ta quen gọi như vậy) của Chính phủ Bảo Đại .

Cũng xin lưu ý bạn đọc rằng, trong bài viết nói trên của Tô Hải, hắn bằng giấy trắng mực đen, khẳng định về lập trường chính trị của tôi là:"Không có đa đảng, đa nguyên, dân chủ, nhân quyền gì hết. Ba triệu thằng cộng sản dù phản tỉnh, dù đối kháng…tất cả đều phải tiêu diệt không thương tiếc. Và mọi quyết định thắng lợi của công cuộc giải phóng quê hương, nay chủ yếu dựa vào…Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!?"

1) Tô Hải và đồng bọn thử trích dẫn xem tôi đã viết và nói ở đâu, lúc nào rằng " Không có đa đảng, đa nguyên,dân chủ, nhân quyền gì hết". Chính vì muốn có đa đảng, đa nguyên, dân chủ, nhân quyền THẬT SỰ, nên tôi mới lột bản chất việt-gian của tập đoàn cộng sản, lật tẩy vở kịch đa đảng, đa nguyên, dân chủ, nhân quyền CUỘI của chúng, mà chúng đã thành công trước đây với trò hề đa đảng bằng các đảng bù nhìn Dân chủ và Xã hội, để xây dựng cái gọi là "dân chủ nhân dân' hay còn gọi là "dân chủ vô sản"(đã vô sản thì làm sao có dân chủ?), cùng cái "nhân quyền đặc thù của VN xã hội chủ nghĩa". Vậy Tô Hải lựa chọn mô hình nào? Hắn căn cứ vào đâu mà dám nói sự hiện diện của những đảng "chống cộng" kiểu Dân chủ 21, Việt Tân…cũng như cách đấu tranh của những đảng chính trị kiểu đó, hoặc của Quảng Độ, kiểu "hiền huynh"của Alibaba Thiện, kiểu lập quĩ tình thương của Bùi Tín, kiểu quì lạy cái ảnh Hoàng minh Chính của những Hoàng cơ Định, Nguyễn bá Cẩn…kiểu khiếu nại vụ Bô-xít của nhóm Nguyễn huệ Chi, chống quyết định của đầu nậu đảng việt-gian-cộng-sản và cái ngụy quyền cộng sản bằng MÉC với Cuốc hội bù nhìn của việt-gian-cộng-sản, là đấu tranh cho đa đảng, đa nguyên…THỰC SỰ chứ không phải CUỘI???

Hắn cố tình nâng bi Nguyễn huệ Chi. Vậy hắn có biết tại sao Nguyễn huệ Chi lại xuất hiện trong vai trò Cuội của vụ Bô-xít? Bởi vì Nguyễn huệ Chi đã từng được phép qua Mỹ từ đầu thập niên 90, thế kỷ trước để làm cái vụ Thay đổi căn cước của người Việt tị nạn! Nguyễn huệ Chi đã được lũ Nhật Tiến, Hoàng khởi Phong, Nguyễn mộng Giác, Nam Dao, Trương Vũ, Nguyễn bá Chung, Đỗ Kh. khom lưng cúi đầu hầu hạ. Cho nên việt-gian-cộng-sản đưa ra lá bài Huệ Chi để tập hợp đám lâu la đó, hỗ trợ cho việc tô vẽ cái Cuốc hội tay sai đó như là một thực thể độc lập trong trò Tam Quyền Phân Lập Cuội. Huệ Chi ở cung trăng rớt xuống hay sao mà không biết vị trí của cái Cuốc hội đó trong trò chơi dân chủ cuội của toàn bộ những nước gọi là "Phe xã hội chủ nghĩa", từ khởi thủy cho đến nay, mà lại méc tội của đảng việt-gian-cộng-sản và ngụy quyền cộng sản cho Cuốc hội việt-gian đàn hạch? Và quả nhiên, ở hải ngoại đã có một lũ theo voi ăn bã mía, hí hửng có dịp được ghi tên chung với "trí thức ngựa trong nước", thí dụ như Chu tất Tiến, một tên bị anh em chùm mền trừng trị về tội ăng-ten trong tù.

Cũng chẳng lạ, vì trong "Hồi ký", thằng hèn Tô Hải đã lập lờ thực thi quan điểm thay đổi căn cước của người Việt tị nạn bằng câu hắn viết trên giấy trắng mực đen rằng:"… đăng ký học tập mang theo lương thực 20 ngày, để rồi…mất hút ở những nơi thâm sơn cùng cốc hoặc có trở về cũng ít nhất sau…10,15 năm…để rồi tiếp tục ra đi theo diện HO, hợp thành một cộng đồng di cư bỏ nước ra đi lớn nhất thế giới"…(Trích trong chương "Tháng 5 Buồn, Tháng 5 Vui"). Thằng hèn Tô Hải lòi bản chất Lưu Manh, Phản Tỉnh Cuội chính là ở 4 tiếng "cộng đồng di cư", nghĩa là hắn phủ nhận căn cước "tị nạn chính trị" của chúng ta. Tôi chỉ đưa ra một dẫn chứng nhỏ trong muôn ngàn những hạt cyanure mà hắn đã trộn trong cuốn hồi ký của hắn!

2) Tô Hải và đồng bọn thử trích dẫn xem tôi đã viết và nói ở đâu và lúc nào rằng: "Ba triệu thằng cộng sản dù phản tỉnh, dù đối kháng…tất cả đều phải tiêu diệt không thương tiếc."

Lập trường của tôi là rất rõ ràng, và cũng chỉ là học lại cách suy nghĩ và hành sử của ông cha dân tộc VN qua kinh nghiệm chống ngoại xâm.

Để chống quân Tống xâm lược, Lý thường Kiệt đã dựa vào quân dân VN từ trung ương đến địa phương (Ngài là Cha đẻ ra "chiến tranh nhân dân", với làng xã thì có dân binh, vừa đánh giặc bảo vệ làng xã, vừa sản xuất, chỉ đánh du kích; với phủ huyện thì có quân địa phương, chỉ đánh tiêu hao và làm chậm bước tiến của địch; và trung ương là quân chính qui có nhiệm vụ phối hợp cùng hai loại vũ trang trên để đánh tiêu diệt. Việt-gian-cộng-sản đã nhận vơ là của Hồ và Giáp!). Chưa nghe nói Lý thường Kiệt bàn đến chuyện DỰA vào sự phản tỉnh, đối kháng của tướng lãnh cho đến binh lính của quân xâm lược nhà Tống để LÀM LỰC LƯỢNG CHỦ LỰC chống quân xâm lược nhà Tống!

Thời Trần, cũng dựa vào DÂN, nên mới mở Hội Nghị Diên Hồng, chứ không ngồi chờ binh tướng Nguyên-Mông để "phản chiến"giúp chống quân Nguyên-Mông. Và cũng như thời nhà Lê, mỗi khi bị quân xâm lược đánh cho chạy thất điên bát đảo (Lê Lợi bị chết hết vợ con và chút xíu bị bắt sống, nếu không nhờ có Lê Lai). Khi thoát nạn, chạy vào vùng Nghệ-Tĩnh đã tập hợp lại "TÀN QUÂN" làm TRỤ CỘT cho việc chiêu mộ tân binh, tiếp tục cuộc chiến giải phóng. Chứ chưa bao giờ lại làm cái việc NGU ĐỘN để chờ một tướng hay lính nào đó trong đoàn quân xâm lược, hoặc chờ quan lại ở triều nhà Minh, bị thất sủng chạy sang lãnh đạo giúp cuộc chiến chống xâm lược….CỦA QUÂN MINH!!!

Và, nên nhớ rằng, tổ tiên chúng ta cũng có đường lối địch vận và khoan hồng đối với KẺ ĐịCH, dù là lính trơn hay tướng, chỉ khi nào họ BUÔNG VŨ KHÍ. Còn những kẻ vẫn trong hàng ngũ quân xâm lược, vẫn áo giáp và vũ khí thì TIÊU DIỆT THẲNG TAY. Bởi nếu chúng vẫn đứng trong hàng ngũ địch thì THÁNH cũng chẳng thể biết đứa nào thật, đứa nào giả. Và, cũng giả dụ là có đứa đầu hàng, phản tỉnh, thì được đối xử nhân đạo, khai thác những thông tin về quân địch và giúp họ trở thành người lương thiện làm ăn, như cấp lương thực và phương tiện cho về quê quán đoàn tụ trong hạnh phúc với gia đình. Chưa bao giờ lại có chuyện "làm tưởng niệm, quì lạy và chia buồn" với quân xâm lược dù họ đã rời hàng ngũ quân xâm lược, chứ nói chi đến mời làm lãnh tụ!!!

Khắp thế giới, nước nào chống xâm lược cũng phải dựa vào quân dân nước mình để chống xâm lược.
Cho phép Tô Hải và đồng bọn thử đưa một dẫn chứng như cách chống xâm lược theo kiểu Cuội của chúng đó. Và Tô Hải thử cho biết bạn bè quen hắn là đảng viên việt-gian có khoảng bao nhiêu người, bao nhiêu phần trăm là yêu nước thực lòng qua hành động cụ thể,và làm sao Tô Hải biết được điều đó?

Cho nên quan điểm của tôi là hoàn toàn học tập theo kinh nghiệm tổ tiên, không chỉ của VN mà của mọi nước trong mọi thời đại lịch sử.

Chống xâm lược mà không dựa vào cái lực lựơng của nước mình, đã có thành tích chống xâm lược và đã đóng góp không chỉ tuổi trẻ và hạnh phúc gia đình, mà còn chính sinh mạng của bản thân, để rồi Nằm chờ 3 triệu tên việt-gian câu kết với nhau thành băng đảng phục vụ cho quân xâm lược Nga-Tàu từ 1930 đến nay là gần 80 năm tròn???

Quan điểm này của thằng hèn và lưu manh Tô Hải, tức Hải Khoai lang, hay Hải Thiên nga, hoàn toàn rập khuân của đặc công đỏ Bùi Tín!

3) Khi Hải Khoai lang riễu quan điểm của tôi về QLVNCH, hắn viết:"Ba triệu thằng cộng sản dù phản tỉnh, dù đối kháng,…tất cả đều phải tiêu diệt không thương tiếc. Và mọi quyết định thắng lợi của công cuộc giải phóng quê hương, nay chủ yếu dựa vào…Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa!?".

Nếu nghe nói thì còn có thể cho là suy diễn chụp mũ. Nhưng đây là viết. Với cách trình bày bằng 3 dấu chấm(…) trước nhóm chữ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và một chấm than và một chấm hỏi (!?) đi liền nhau sau nhóm chữ đó, cho thấy thằng lưu manh Tô Hải-khoai lang này COI THƯỜNG QLVNCH cũng hệt như Bùi Tín. Những Gs như Lê trung Khảo, nhà văn Trần phong Vũ… và các con buôn truyền thông lưu manh có nhìn ra cái điểm này không mà phồng mang bụm mỏ thổi ống đu đủ tên phản tỉnh cuội Tô Hải?

Thử hỏi, căn cứ vào đâu mà Tô Hải dám nói là " ba triệu thằng cộng sản" phản tỉnh hay đối kháng?

4) Tô Hải viết rằng tôi:"vu cho vợ nhà văn Đào Vũ ngủ với đại tướng Võ nguyên Giáp", chứng tỏ một lần nữa hắn đã lộ cái mặt phản tỉnh cuội. Tôi chỉ nói rằng thằng Võ nguyên Giáp ỷ quyền mà ép vợ Đào Vũ dạy piano và ngủ với cô ta. Việc Giáp cậy quyền để ngủ với cô ta hoàn toàn ngược lại với việc cô ta ngủ với Giáp. Nghĩa là cô ta là nạn nhân vì bị ép uổng. Còn cô ta ngủ với Giáp thì hoặc là cô ta tự nguyện hoặc Giáp là nạn nhân. Ngay cái việc có thật đó, cả Hà nội đều đồn ầm lên, nhất là đứa bé sinh ra có dáng lùn như Giáp, trong khi đó Đào Vũ cao trên một mét tám chục phân (1m80) và đứa con lớn cao không lùn như đứa nhỏ, vậy mà hắn cũng lợi dụng dịp này để cải chính cho Giáp và cũng để rào đón trước với dư luận, sợ tôi bạch hóa các chuyện thả dê của hắn. Một người bình thường, chẳng cần thật tinh ý, nhìn cái bản mặt của Tô Hải là biết thằng này mà không thả dê mới là chuyện lạ. Cha ông ta đã dạy:"Trông mặt mà bắt hình dong…"! Thật chẳng sai tý nào.

5) Sang chuyện Tô Hải thanh minh rằng hắn không là đảng viên việt-gian-cộng-sản. Hắn viết đúng, nhưng mới đúng có một nửa. Bởi vì từ trước 1986, hắn không những là đảng viên việt gian mà còn nằm trong cấp ủy, chính Đinh quang anh Thái cũng phỏng vấn hắn trong ngày ra mắt sách của hắn vừa qua cũng giới thiệu hắn là đảng viên việt-gian và ra đảng từ 1960 (nếu không ở trong đảng làm sao lại ra đảng). Việc này tôi đã lật mặt nói láo của hắn. Sự thật là hắn bỏ bê công tác và vắng sinh hoạt đảng trong một thời gian dài vì, như tôi đã viết,rằng hắn sợ mất cô vợ trẻ ở Nha trang, nên thì thọt ra đó có khi cả tháng trời. Mặc dù được cấp trên nâng đỡ lờ đi cho, nhưng có một số ghét hắn là mật vụ nên tiện dịp tố cáo cho hắn bị kỷ luật. Vì bị khai trừ đảng, hắn bẽ mặt nên mới xin hưu non như hắn đã bịa đặt, và còn bịp những tên mù lòa thông tin là hắn về hưu vì "không muốn làm theo chỉ thị"! Cũng như chuyện hắn viết rằng hắn nghèo và trong diện cứu đói là đúng sự thật. Nhưng cũng chỉ là một nửa sự thật! Khi đi tù về, anh em kể lại, tôi mới biết rằng số phận hắn giống như Sỹ Trúc, mà tôi có đề cập ở bài trước. Đó là cô vợ trẻ của hắn đã lột hết của cải cùng người tình vượt biên. Tô Hải đã gần như phát điên một thời gian và vì thế đành quay lại ăn chực lao động của bà vợ già. Ngay lần đầu thấy sự chênh lệch mà Tô Hải đã bị chửi là "cóc tía đòi ăn thịt thiên nga", tôi đã biết Hải thiên nga sẽ ôm hận tình. Làm sao cô gái trẻ ở Nha trang lại có thể yêu được một tên mắt lồi lại lé, mồm cá ngão thiếu vệ sinh và già chắc hơn bố đẻ của cô ta?

Luật nhân quả thật là đúng làm sao! Cái loại chối bỏ cha mẹ, anh chị em, để đi làm việt-gian, tích cực làm nhạc nô chống nhân dân và Tổ quốc; tích cực làm mật vụ để rình mò hãm hại người lành; càng già càng ham trò "trâu già thích ăn cỏ non"; dùng tiền và quyền để che cái xấu hình thức mắt lồi và lé, mồm thiếu vệ sinh (cho nên cùng cảnh trâu già, mới ra công chạy tội cho thằng Võ nguyên Giáp, cũng ưa ăn cỏ non), thì đương nhiên phải trả giá cao cho thuận lẽ Trời!

6) Tô Hải đã viết rằng tôi có:"cái tài "ma xó"chuyện gì cũng biết đặc biệt là những chuyện chăn gối của các "cốp"cứ y như hắn nằm sẵn dưới gầm giường của họ vậy".

Đúng là tôi có tài "ma xó", vì tôi quyết tâm tìm hiểu về tập đoàn việt-gian-cộng-sản, cả sinh hoạt cả những âm mưu bán nước, giết dân. Tôi hiểu chúng như người dạy thú hiểu về lũ thú dữ, để khai thác thông tin, để nhân lên những mối quan hệ, nhờ đó biết chỗ mạnh của chúng và chỗ yếu của chúng. Nhờ đó đã đúc rút ra cách sống giữa bày dã thú mang lốt người. Đó là:"Nhất thân (tức quen thân); Nhì thế (tức làm lớn); Tam ngân (tức có tiền); Tứ chế (tức chế độ, chính sách)". Cho nên cách đây vài năm, một dân chủ cuội là Nguyễn phương Anh, cũng đã viết bài "chửi" tôi là "khéo nịnh các cây đa cây đề"nên cửa nào cũng vào lọt, đi đâu cũng được tiếp rước như đại công thần" (nịnh mà lại được tiếp rước?).

Vì là " "ma xó"chuyện gì cũng biết" nên tôi mới biết bộ mặt thật của tên lưu manh Tô Hải, kể cả chuyện thả dê, đến "nổ ống khói"của hắn, cũng như cái mã cóc tía già đòi ăn thịt thiên nga nên trắng tay, cả tài sản, cả công ăn việc làm và trở thành thằng ăn chực, mang thành tích cũ bịp giới trẻ để kiếm ăn, và bây giờ lại chấp nhận làm một con tốt trong ván cờ "quên quá khứ, xóa bỏ hận thù; hòa giải--hòa hợp"của việt-gian-cộng-sản!

Cũng chính vì "chuyện gì cũng biết" và " đi đến đâu cũng được đón tiếp như đại công thần"nên tôi mới có thể giúp những anh chị em hoạn nạn, như tôi đã bật mí một vài vụ việc ở trên. Cũng nhờ thế nên tôi có khả năng cung cấp thông tin chuẩn xác cho những cá nhân hay tổ chức nào thực lòng chống xâm lược đỏ. Và cũng đốt cháy những con bài cuội hoặc đặc công đỏ như Bùi Tín, Vũ thư Hiên, Nguyễn minh Cần, Alibaba Thiện, Trần Nhu, Trần Độ, Trần Khuê, Nguyễn thanh Giang, Lê hồng Hà, Trần đại Sơn, Hoàng minh Chính, Đỗ nam Hải, Nguyễn chính Kết, Trần anh Kim, Phan văn Lợi, Quảng Độ…và những lá bài mới là Nguyễn huệ Chi, Phạm đình Trọng, Lê phú Khải và Tô Hải (một mật vụ do Khải trực tiếp chỉ đạo) và v.v…

Cũng nhờ "ma xó" và "đi dâu cũng lọt"nên mới biết nhiều chuyện thâm cung để vạch mặt các "cốp"(tức cán bộ cao cấp việt-gian), làm cho Tô Hải ĐAU LÒNG CĂM THÙ Việt Thường (dù là ân nhân của hắn). Thế là Tô Hải tự lột mặt nạ HÈN để hiện nguyên hình tên mật vụ việt gian trung thành với chủ cho đến giờ phút sắp xuống lỗ, đúng như hắn đã tuyên thề trong ngày ra nhập đảng việt-gian, với 40 tuổi đảng!

7) Tô Hải đã viết rằng, tổng kết chiến dịch Z (Hải lại bịa rồi, vì không có chiến dịch mang tên Z, mà chỉ có chiến dịch mang tên X1 và X2), hắn được " Bảo định Giang, Bí thư Đảng Đoàn Văn Nghệ miền Nam" phổ biến trong hội nghị rằng:"có nêu tên một số cán bộ "đi cải tạo tư sản lại bị tư sản cải tạo lại"mà điển hình là nhà báo Hùng Văn".
Trước đó thì Tô Hải viết về tôi rằng:" nhờ mồm mép được vào làm việc chạy vặt trong tòa báo Tổ quốc của đảng xã hội,(cánh tay nối dài của báo Nhân Dân của đảng cộng sản)thì hắn bỗng dưng đi đâu cũng tự xưng là nhà báo."

So sánh nội dung hai đoạn trên ta thấy Tô Hải cố tình bôi nhọ tôi, nhưng rồi hắn lại tự lòi đuôi. Tô Hải bịa rằng tôi làm việc chạy vặt, và đi đâu cũng tự xưng là nhà báo. Vậy xin hỏi quan thầy của Hải là Bảo định Giang sao trong hội nghị lại không gọi tôi là "làm việc vặt" mà lại gọi tôi là nhà báo? Đúng là Hải khoai lang, không phải đi thả dê bị tạt tai, mà hắn tự tạt tai trong hai đoạn trích nói trên.

8) Tô Hải viết rằng thời Pháp, Cha tôi có cổ phần trong công ti Hòn Gai (tức công ty khai mỏ lớn nhất Đông dương thời Pháp thuộc). Bỏ qua chuyện bịa đặt đó, mà chỉ nói đến việc giàu có như thế là thuộc đối tượng tận diệt của việt-gian-cộng-sản rồi. Lại thêm:"…thời kỳ chống Pháp chẳng ai tham gia hoạt động gì nhưng cũng chẳng ai phải đi tù đi tội", nào là:"Mấy anh em…đều được ăn học tử tế. Cả gia đình hoàn toàn sung sướng và không có một oán thù gì với cái gọi là cách mạng cộng sản cả.".

Tô Hải lợi dụng việc bịa đặt bôi nhọ tôi kết hợp với rửa mặt sát nhân cho việt-gian-cộng-sản. Bạn đọc thử nghĩ xem, một gia đình giàu có đến độ có cổ phần trong một công ty khai mỏ lớn nhất Đông dương từ tời thực dân Pháp đô hộ; rồi lại không rời Hànội lên Việt Bắc theo Hồ, mà ở lại Hà-nội theo chính phủ Bảo Đại, vậy mà khi Hồ việt-gian vào Hà nội, "cả gia đình hoàn toàn sung sướng, không có một oán thù gì với cộng sản cả", hơn nữa lại còn:" đều được ăn học tử tế"!!! Vậy thì Hà-nội dưới sự cai trị của tập đoàn việt-gian Hồ chí Minh có khác gì VNCH???
Dù có bàng quan với thời cuộc, thì cũng thấy Tô Hải chạy tội cho việt-gian-cộng-sản một cách trắng trợn! Một gia đình như thế mà còn không bị trấn áp thì những người khác bị tù đầy, như bà Nguyễn thị Năm, các thành phần Trí , Phú, Địa, Hào…bị tù và giết chết vì tội gì? Hẳn phải là tội phản bội Tổ quốc chăng? Hay những chuyện giết chóc là bị cường điệu, như Tô Hải từng trả lời phỏng vấn VNExodus rằng "các ông Lê đức Thọ và Tố Hữu chưa bao giờ có lệnh cấm" sáng tác và xuất bản đối với những người dính vào vụ Nhân văn--Giai phẩm, mà họ tự cấm đấy thôi!!!???

9) Ngay trong Hồi ký, Tô Hải chỉ tự chửi những cái vặt vãnh, còn những thứ tày Trời thì hắn lờ đi hoặc lái theo hướng có lợi cho hắn, đặc biệt vẫn bảo vệ một cách khéo léo tội ác của việt-gian-cộng-sản. Xin được dẫn chứng qua hai thí dụ:

Thí dụ thứ nhất: Vụ "Toán xồm". Nếu theo Tô Hải viết trong hồi ký thì hình như hắn là người quí mến cái tài của ông Toán và nhóm của ông ta. Hắn làm như hắn không dính dáng gì đến việc ông Toán và cả nhóm bị bắt bỏ tù. Chắc Tô Hải không ngờ rằng tôi đã được biết qua một nguồn tin là với nhiệm vụ mật vụ văn hóa văn nghệ, Tô Hải đã được trao trách nhiệm điều tra, theo rõi nhóm ông Toán. Nên cả nhóm ông Toán bị bắt không sót người nào, loại trừ người duy nhất, đó là diễn viên điện ảnh Trà Giang (vợ của Bích Ngọc), là cháu dâu của Phạm văn Đồng, thủ tướng ngụy quyền cộng sản. Tôi đã bật mí chuyện này cả trong cuốn "Thâm cung bí sử", cả trong cuốn "Sự tích con yêu râu xanh", cả trên báo Diễn đàn Phụ nữ từ hơn 15 năm về trước. Nhưng trong Nhật ký thằng hèn, Tô Hải đã không dám nói đến Trà Giang, vì muốn bảo vệ uy tín cho "cốp" Phạm văn Đồng. Nhiều anh em báo chí văn nghệ thời đó cũng biết cả, nên nhắc nhở nhau cẩn thận vì Tô Hải là "indicateur(chỉ điểm viên). Ấy thế mà hắn lại vu cáo sang tôi.

Khi tôi ra tù, chính ông Kiên, có bí danh "Kiên Hawai",cùng vợ con (vợ sau, vì vợ trước bỏ khi ông Kiên đi tù) vào sinh sống ở Sài-gòn, có lại thăm tôi, và hàng tuần chí ít cũng 3 đến 4 lần uống cà-phê với tôi ở trước tiệm sách của Sunhaxaba. Và ông Kiên cũng kể vào tù mới biết kẻ chỉ điểm là Tô Hải. Vì có một số chuyện chỉ có mình Tô Hải nghe ông Kiên nói, vậy mà công an văn hóa việt-gian biết. Ông Kiên học dưới tôi mấy lớp khi ở Albert Sarraut và cùng tham gia đội bóng rổ.

Ngay những lời đối chất trong phiên sử nhóm ông Toán, Tô Hải cũng xuyên tạc để bảo vệ cho Phạm văn Đồng. Hắn bỏ không dám nói việc nhóm ông Toán, trong đó có cả cháu dâu Phạm văn Đồng, lén nghe đài miền Nam và cùng nhau hát bài hát của miền Nam, mà trong vụ án chúng gọi là nhạc vàng (nhóm chữ" nhạc vàng "ra đời từ đó). Giữa phiên tòa, ông Toán đã anh dũng khẳng định thích nhạc miền Nam và nhắc lời Trà Giang (cháu dâu Phạm văn Đồng)rằng nhạc miền Nam có tình người, còn nhạc miền Bắc khát máu quá. Đó là lý do ông Toán bị kết án nặng nhất, 16 năm tù ở, nhưng quá 18 năm vẫn chưa được tha. Số còn lại chỉ bị 8 năm tù ở!

Thí dụ thứ hai: Chuyện về họa sĩ Lưu công Nhân cũng thế. Tô Hải kể không hết và cũng tránh cái gì bất lợi cho Tố Hữu cũng như cá nhân hắn.

Khi còn ở Hà nội, Lưu công Nhân (LCN) nghèo chứ không giàu như Tô Hải. LCN có thể nói là rất thân với tôi. Hoàn cảnh gia đình trớ trêu. Vợ LCN thời gian ở Việt Bắc là thư ký riêng của Tố Hữu. Có dư luận Tố Hữu lăng nhăng với cô ta. Sợ tai tiếng nên Tố Hữu cho gọi LCN và ÉP phải lấy cô thư ký riêng đó, mặc dù cô đó đã nhận LCN là em nuôi, hơn tuổi LCN khá nhiều. Vì thế, LCN toàn lấy cớ sáng tác để đi xa nhà. Khi có việc xây thủy điện Thác Bà, Yên Bái, LCN lên đó làm cái nhà nổi ở giữa hồ ở một mình vẽ tranh. Lâu lâu mới về Hà-nội, và hầu hết là tìm gặp tôi ngay. Và thường rủ tôi đi xem LCN tìm cách chặn đầu xe hơi của Tố Hữu để xin tiền. Tố Hữu buộc phải cho. Mỗi lần như thế lại cùng mấy anh em thân khác như nhạc sĩ Hồng Đăng và nhà báo Vũ Hạnh(không phải Vũ Hạnh ở miền Nam) đi các quán ăn chui, thưởng thức các món cao cấp do đầu bếp lành nghề của công ty ăn uống Hoàn Kiếm, chuyên phục vụ các hội nghị và khách nước ngoài.

Khi tôi chuyển vào Sài-gòn rồi, thì gia đình vợ con LCN vẫn ở Hà nội, LCN vào một mình. Quá bận việc nên thỉnh thoảng tôi mới đi chơi với LCN để uống cà phê, thường là tiệm Brodard ngay trước nhà tôi, hoặc ăn ở tiệm Việt Hương, kế văn phòng hãng Air France.
Có một lần, LCN đến tìm tôi và nói đại ý:"Mày có thể giúp tao lôi thằng Bút hay Phương Nam (giám đốc và phó giám đốc sở ngoại vụ Sài-gòn), cả hai thì càng tốt, nếu không một thằng cũng được, vào Chợ lớn ăn với tụi quen tao là chúng mình khối tiền, không cần phải chẹt cổ thằng Tố Hữu nữa." Tôi biết LCN rất nghệ sĩ, không phải là loại ham tiền. Nên hỏi vặn một lúc là anh chàng khai hết. Thì ra kẻ âm mưu chính là tên lưu manh Tô Hải. Hắn muốn làm môi giới cho một số người muốn đi nước ngoài, nên định lợi dụng LCN quen với tôi, dùng anh chàng "bán Trời không văn tự này"để bắc cầu với sở ngoại vụ. Tôi giải thích thế nào LCN cũng cho việc làm của Tô Hải là đúng với "ông đưa chân giò, bà thò chai rượu". Mặc LCN nói gì tôi kiên quyết từ chối. Tôi có chủ đích nên hết sức giữ gìn không để tì vết cho ai có thể khai thác mà triệt hạ mình về mặt phẩm chất. Cuối cùng, trước khi chia tay, LCN chửi tôi "Đ…M…, đéo chơi với mày nữa, nhờ mày chút việc chứ xin mày đồng bạc hay bữa ăn nào đâu mà ra cái đều ta đây". Thực lòng tôi rất buồn khi mất một người bạn, đã bao năm ngọt bùi, vui buồn có nhau.

Khi đi tù về, một số anh em trong giới báo chí tụ họp tại nhà phóng viên báo Đại đoàn kết là ông Duy Đức (có bí danh là Mông Cổ) để mừng cho tôi và uống ly rượu tẩy trần. Giáo sư trường múa kiêm biên đạo múa xưa kia là Nguyễn Việt, bấy giờ trở thành giám đốc Trường dành cho những người mù ở Sài-gòn, khi đưa tôi về, đi qua villa đồ sộ, rủ tôi vào chơi nhà LCN, nhưng tôi từ chối. Ông Nguyễn Việt cho tôi biết Tố Hữu khi giữ chức phó thủ tướng thứ nhất ngụy quyền cộng sản việt-gian, phụ trách kinh tế, đã vội trả ơn cô thư ký riêng khi xưa, đã thành vợ LCN, bằng đặc cách cho làm tổng giám đốc xí nghiệp dược phẩm liên doanh với hãng Roussel của Pháp, nay thì giàu khủng khiếp, có cả villa ở Đà lạt. Và cũng ông Nguyễn Việt cho tôi biết về số phận của tên lưu manh Tô Hải. Sự việc là như thế mà Tô Hải đã vu cho tôi, nào là làm tiền chệt Chợ lớn, nào là tổ chức vượt biên.

Khỏi cần nói đến những nhân chứng mà tôi nêu rõ tên, nghề nghiệp, ở bên trên, biết rõ tôi là người như thế nào. Ở Sài-gòn, sau khi ra tù, tối nào mà ông Huỳnh thành Vị (hiện ở Paris), nguyên chủ nhiệm báo Đồng Nai, cũng cùng tôi đi chơi và biết rõ sinh hoạt của tôi cả trước và sau khi bị tù.


KẾT LUẬN

1) Tôi khẳng định Tô Hải từng là một mật vụ văn hóa của việt-gian-cộng-sản, rất nhiều người biết, trong số người mà tôi nêu rõ tên, là những người có tên tuổi trong xã hội ở miền Bắc khi xưa. Nay số đó còn sống khá nhiều.

2) Tôi lưu ý bạn đọc rằng việc Tô Hải, một bộ mặt nhiều người biết, khi cho ra đời cuốn "Hồi ký thằng hèn", không có ai trong giới nhạc sĩ hay nhà văn, viết lời giới thiệu, mà phải để cho tên an ninh văn hóa Lê phú Khải, an ninh nòi, nhận là "học trò tiếng Pháp của Tô Hải"để quảng cáo. Xin nhớ cho rằng bố đẻ của Lê phú Khải, cũng đỗ tú tài đôi và làm cho Pháp, chứ không như Tô Hải, chỉ có bán phần mà lại không dùng tiếng Pháp từ 1944, chí ít cho tới 1975, vì công việc của hắn không dính gì đến việc phải dùng tiếng Pháp. Thêm nữa, bác ruột Lê phú Khải, là một nhà giáo tốt nghiệp trường sư phạm thời Pháp từ trước 1944, có mở lớp dạy Pháp văn tại gia cho các con cùng tuổi với Khải. Chưa hết, ngay tại trường sư phạm Hà-nội 1, cũng có khoa Pháp ngữ, ưu tiên cho người từng là sinh viên của trường học miễn phí vào ban đêm (nếu học Tô Hải, hiển nhiên phải trả tiền). Và thời kỳ đó ở Hà nội ai muốn học Pháp ngữ đều chọn các thày như các Gs Khúc ngọc Khảm, Đoàn phú Tứ, Bùi Phụng, Nguyễn Trác, Đỗ đức Hiểu, Chiêm Tế, Cao xuân Hạo, Nguyễn văn Quang (làm thông dịch ở Tổng đại diện Pháp)…Chưa ai nghe nói một thằng cà lăm tiếng Pháp như Tô Hải mở lớp dạy tiếng…Pháp…khoai lang!!!

Đúng là Lê phú Khải thường xuyên tụ họp tại nhà Tô Hải, nhưng không phải học tiếng Pháp, mà là hội ý của nhóm mật vụ văn hóa do Lê phú Khải cầm đầu. Anh chị em làm công tác văn hóa nghệ thuật đều rỉ tai cho người thân tình biết cả, nhưng mọi người đều làm như không biết gì. Chỉ có mỗi họa sĩ Nguyễn Sáng được họa sĩ Diệp minh Châu (con cưng của Hồ và Lê Duẩn) ngồi uống bia chửi cho nghe đại ý: "Đ. M. cái thằng nhạc sĩ "khoai lang"(tức Tô Hải) Bắc kỳ, với tao đây mà nó còn báo cáo là tao hay nhậu chung với tay làm báo của đảng cộng sản Ý. Nó cũng báo cáo với thằng Giang (tức Bảo định Giang) là hôm viếng anh Thanh (tức Nguyễn chí Thanh) ông già Nguyễn Tuân không đến. Trên không ngăn là tao dộng cho nó thấy mẹ"!

Xin hỏi, cuốn "Hồi ký thằng hèn" của Tô Hải, được một đại tá an ninh văn hóa giới thiệu, và khi ra tới hải ngoại được những bộ mặt nào quảng bá, thổi ống đu đủ, thì phải hiểu chắc chắn nó nằm trong một âm mưu của việc thực thi nghị quyết 36 của việt-gian-cộng-sản. Ai, điện báo nào, đã bảo vệ Tô Hải trong việc bôi nhọ Việt Thường hăng say, không lưu ý đến bằng chứng và lý luận. Tự chúng đã lộ mặt thật cùng Tô Hải.

Tô Hải trong bài của mình, đã đắc chí viết rằng tôi bị Take2Tango và Vnexodus "đã lâu không cho con chó săn điên khùng (được thả từ C.A. Hà-nội ra) tự do phóng uế lên sàn nhà mình như cách đây 2,3 năm nữa".

Về điểm này xin phép được minh định như sau:

Thứ nhất: Về Take2Tango, chưa bao giờ tôi gửi bài cho cái điện báo đó. Tự cho ngòi bút của mình là để đấu tranh chống việt-gian-cộng-sản, bằng lý luận, bằng chứng cớ người thật, việc thật, làm sao bài viết của tôi lại có thể gửi gắm vào chỗ đó. Nội cái tên của điện báo đã cho thấy nó là cái gì. Nghe nói nó còn là đích tử của vụ lừa Bocassa ở Trung Phi. Nếu bạn đọc nào thấy có bài tôi trên mặt điện báo đó, là do họ tự lấy và in, ngoài ý muốn của tôi. Việc làm ăn của Take2Tango, tôi không quan tâm, vì tôi không biết gì về họ, cho nên chưa bao giờ tôi nói hay viết có chút gì đụng chạm đến họ. Ngay việc họ thổi Tô Hải và hưởng ứng lời Tô Hải kêu gọi đăng bài bôi nhọ tôi, thì tự thân họ nhục trước, chưa nói đến họ đã bộc lộ sự non kém cực kì. Họ không thấy chính Tô Hải đã khinh họ và dù bôi nhọ tôi cũng phải đề cao tôi bằng nhóm chữ "tự do phóng uế lên sàn nhà mình", là điều chưa bao giờ tôi dám nghĩ và dám làm như thế. Tô Hải coi mặt tờ điện báo Take2Tango là cái SÀN và tôi TỰ DO PHÓNG UẾ. Hi vọng những người làm nghề chữ nghĩa của Take2Tango sớm tỉnh ngộ khi tìm đồng minh và minh chủ!!!

Thứ hai: Về điện báo VNExodus thì đúng là tôi bị "sa thải", sau khi đã góp sức làm cho nó được coi là tiếng nói chống việt-gian-cộng-sản mạnh mẽ, cơ bản và bằng lý luận. Trước khi tôi nói cho nó thì chỉ có những audio sụt sùi khóc "tướng quân Trình minh Thế". Thính giả khi nghe cứ tưởng đang nghe một trích đoạn lâm li của một tuồng cải lương, với những tiếng nấc, tiếng thở, tiếng phều phào. Trong trạng thái như thế, tôi đã đem lại cho nó một sức mạnh của lòng tự tin của việc làm chính nghĩa. Tôi đã chì cho một hướng đấu tranh trên các mặt trận truyền thông:

1) Phải đập tan thần tượng Hồ chí Minh, bằng chứng minh bản chất việt-gian của Hồ và cái tổ chức của nó có tên đảng cộng sản VN;

2) Song song với mảng đề tài trên là phải khôi phục lại lòng tự hào của Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, đặc biệt là QLVNCH cần được tách ra khỏi sự khống chế của Việt Tân. Phải vinh danh chiến tích chống việt-gian-cộng-sản của Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, đặc biệt là QLVNCH, nhất là những thương binh còn kẹt trong nước và vẫn bị phân biệt đối xử.

Phải lật mặt những đảng phái tay sai, lũ nằm vùng, trí thức ngựa, truyền thông bất lương ở hải ngoại, nghĩa là diệt nội gián, không để lặp lại những sai sót của hai nền cộng hòa. Đồng thời vạch trần âm mưu chơi trò dân chủ cuội của việt-gian-cộng-sản. Nêu đích danh cá nhân, tổ chức cả trong và ngoài nước trong vở kịch này.

3) Chống các lập luận bôi nhọ VNCH. Trong hoàn cảnh hiện nay, cần nêu cao tính chính nghĩa của VNCH, biểu tượng là Quốc kì VNCH. Không phải chúng ta che dấu sai lầm của quá khứ mà nên nhớ việt-gian-cộng-sản và đồng minh của chúng cùng tụi nội gián đã làm việc đó từ nhiều thập kỷ. Với một nền truyền thông của chúng ta còn hết sức yếu ớt ở hải ngọai nếu lại tiếp tay cho địch mà chửi và bôi nhọ mình là điều cực kì ngu xuẩn. Phải dùng truyền thông của ta tập trung tấn công vào chỗ yếu của địch: đó là bản chất việt-gian của tổ chức cộng sản từ khi ra đời năm 1930 cho đến nay.

4) Phải chống quan điểm coi dân trí VN thấp, dùng tài liệu lịch sử. Phải coi "dân oan" trong mọi tầng lớp nhân dân quốc nội là lực lượng chủ chốt cho mọi hoạt động cách mạng ở trong nước, và ở hải ngoại là sự phối hợp nhịp nhàng với QLVNCH.

5) Phải vận động những người giỏi ngoại ngữ để dịch các tài liệu về tội ác của toàn bộ đảng việt-gian-cộng-sản, dùng cho tuyên truyền đối ngoại, tranh thủ sự đồng tình của nhân dân toàn thế giới.

Vì thế VNExodus trong thời gian dài đã vạch mặt việt-gian của tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh. Ký giả Tường Thắng còn tổ chức Hội luận về tội việt gian của Hồ. Và cũng với tư cách phóng viên SBTN phỏng vấn tôi về tội việt gian của Hồ. Nhưng vừa kịp phát một lần thì Lưu trung Khảo, xem được đã điện thoại cho SBTN phản đối. Vì thế, chương trình của tôi bị cắt.

Tiếp sau đó, Bùi Tín, qua môi giới của Bs Bùi duy Tâm, đã vận động "tẩy chay"tôi vì đã phá hỏng công trình của hắn tâm huyết xây dựng trong 15 năm ở hải ngoại. Cũng như trước đó, đích thân tên Trần tuấn Anh, tổng lãnh sự việt-gian-cộng-sản ở SF, đã đi đêm với người có trách nhiệm để "Bịt tiếng nói của Việt Thường". Kết quả Việt Thường bị "bịt miệng ở VNExodus" và một chiến dịch của dân chủ cuội và nick ma từ cái lò Ánh dương, Chu tất Tiến, Phan Nhật Nam… viết bài bôi nhọ Việt Thường, không dám dùng lý luận. Đặc biệt Đỗ thị Thuấn và Chu tất Tiến bịa ra bài viết của một tên Nguyễn trí thức nào đó, viết là chung tù ở Z30D, nhưng không dám nói ở K nào, đội nào, ai là đội trưởng để dựng ra đủ thứ.

Việt Thường bị "bịt miệng" chưa bao lâu thì hội luận tội ác của Hồ trên VNExodus cũng chìm luôn, chỉ còn vấn đề dân oan làm màn khói che cho việc chuyên chở những bài của đủ loại mặt dơi tai chuột mần chính trị, theo kiểu SBTN và Người Việt, sản phẩm của Đỗ ngọc Yến, chí hữu của Nguyễn tấn Dũng!

Bài bôi bẩn Việt Thường do Tô Hải viết được các thân hữu cho tôi biết chỉ thấy trên Take2Tango và Ánh dương với Chu tất Tiến!? Các vai hề đã tự lột râu và lau son phấn, chúng ta chẳng tốn một giọt mực!

Về chứng cớ: Hiện ông Nguyễn đức Chung, tức Nam Nhân, thiếu úy không quân QLVNCH, chủ điện báo Hồn Việt UK còn lưu giữ một số mails của ký giả Tường Thắng gửi để cảnh báo việc "có âm mưu bịt miệng Việt Thường".

Còn việt-gian-cộng-sản thì tôi còn dùng vũ khí truyền thông vạch mặt chúng cùng lũ tay sai.

Sau Tô Hải, chúng lại sẽ in hồi ký những tên như Nguyễn đình Thi, Xuân Diệu, Cù huy Cận, Nguyễn Khải và v.v…cho mà xem. Và việt-gian-cộng-sản lại dùng bổn cũ nhưng vẫn còn hữu hiệu là cho "đi tù" một số cuội để bồi dưỡng theo tiêu chuẩn đặc biệt cũng như cho học tập thêm ngoại ngữ và kế hoạch nhập vai dân chủ cuội, để phục vụ sự đổi màu, che mắt thiên hạ trong dịp đại hội đảng việt-gian lần 11 vào 2011.

Chúng ta sẽ chờ xem những lá bài như Trần anh Kim, Đỗ nam Hải, Phan văn Lợi, Nguyễn tiến Trung…sẽ được cho "vào tù" để tu "đạo Cuội", nhằm lấy cầu chứng quốc tế!

Chúng ta hãy chuẩn bị nhất tề ra quân, đánh cho chúng phải rớt mặt nạ, hiện nguyên hình việt-gian!


Anh-quốc, ngày 8 tháng 7 năm 2009
   
 Việt Thường


PHỤ LỤC: Trước 1975, trong khi Tô Hải sáng tác hơn ngàn ca khúc để ca ngợi Hồ và cái đảng việt-gian, thì từ cuối thập niên 50, thế kỷ trước, Việt Thường đã liên tục cho đến nay, không ngưng nghỉ vạch tội việt gian, bán nước, giết dân của chúng. Một số "Thơ ghế đá" và "Tiếu lâm thời đại" của Việt Thường đã được in trong mấy cuốn sách và các bài viết khác của Việt Thường. Xin trích vài bài, giới thiệu cùng quí bạn đọc.

1)  Làm thân đàn bà

Chồng bị bắt lính phương xa
Mẹ cha cải tạo chết già rừng sâu
Ngày cày thay kiếp ngựa trâu
Đêm làm cái nệm để hầu quan viên
Đảng ủy chủ tịch ưu tiên
Trưởng công an xã tiếp liền theo sau
Ơn đảng, nghĩa bác dày sâu
Nhân dân thành đĩ thành trâu hết đời
Thấu tình chăng, hỡi Đất, Trời?


2)   Hồ việt gian
                                                           
Họ Hồ có cái mặt mo
Bắc kinh xin đổi ba bò chín trâu
Hồ rằng Hồ chẳng lấy trâu
Nga-xô xin đổi một xâu cá mè
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mè
Bắc kinh xin đổi một bè gỗ lim
Hồ rằng Hồ chẳng lấy lim
Nga-xô xin đổi đôi chim đồi mồi
Hồ rằng Hồ chẳng lấy mồi
Bắc kinh xin đổ máu tươi: Hồ cười
Nga-xô thêm "tý" thịt người Việt Nam
Mặt mo, HỒ ĐÚNG VIỆT GIAN!!!

                                                                   
3)   Võ nguyên Giáp mọc sừng

Phạm huy Thông, Phạm huy Thông
Giáo sư nổi tiếng tô hồng bẻ hoa
Một tay bóp méo sử nhà
Một tay nắn bóp lệnh bà tướng công
Tướng bà dám cắm sừng chồng
Bởi chưng biết thóp tướng ông nhập nhèm
Chồng ăn chả vợ ăn nem
Thôi thì cùng cảnh lèm nhèm như nhau
Tướng ông trong bụng rất đau
Nhưng Thông lại có đỡ đầu quan trên
Mưu sâu là chước lặng yên
Đội mũ đạo đức, đeo kiềng nhân luân
Nghĩ rằng việc ở trong quần
Nào ngờ dân đã xa gần đều hay
Khen tài: Thông đúng là Tây!


4)  Đao phủ Đồng sĩ Nguyên

Đồng sĩ Nguyên! Đồng sĩ Nguyên!
Theo Hồ ngươi giết con chiên Ba Làng
Tội ác ngươi nhất thế gian
Trẻ thơ cũng bắn, già làng cũng đâm
Cỏ cây cũng phải khóc thầm
Núi sông cũng phải một lần phong ba
Đảng ngươi, đảng lũ Tàu, Nga
Cộng ngươi, cộng máu, cộng hòa thịt xương
Cách ngươi, một lũ bất lương
Cùng quân ăn cướp, cùng phường lưu manh
Đảng ngươi, tội ác rành rành
Chứng nhân còn đó, sử xanh Đất, Trời
Lũ ngươi đền tội đời đời!