Thursday, October 28, 2010

Bối Cảnh & Tình Hình Việt Nam khi ông Ngô Đình Diệm về chấp chính.

Bài này trích trong quyển "Chính Biến 1-11-1963 & TT Ngô Đình Diệm" của tác gỉa Ngô Đình Châu, do nhà báo THẰNG MÕ San Jose xuất bản năm 2009 . nơi trang 27 với tiêu đề: 
 
Bối Cảnh & Tình Hình Việt Nam
khi ông Ngô Đình Diệm về chấp chính.


Nhìn một cách tổng quát, bối cảnh Việt Nam nằm trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương.  Tình hình Nam Việt Nam lúc đó thật bi đát. Tiếng nói thật yếu trên trường quốc tế (trong Hội Nghị Geneve). Trong nước (Nam Việt Nam), xã hội nằm trong tình trạng sứ quân. Quân đội phôi thai, mới chuyển từ quân đội viễn chinh Pháp... 
Ông Ngô Đình Diệm đã vượt qua bao nhiêu là thử thách, để lấy lại chủ quyền đất nước trong tay người Pháp một cách êm thắm, và rứt khỏi linh hồn đế chế phong kiến, để thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam.
Chiến tranh Đông Dương là cuộc chiến diễn ra từ ngày 19 tháng 12 năm 1946 tới ngày 1 tháng 8 năm 1954 giữa Quân đội viễn chinh Pháp và lực lượng Việt Minh, cùng các nhóm kháng chiến khác của Lào và Campuchia... nên được gọi là "Cuộc chiến Đông Dương". Nhưng chiến sự chủ yếu diễn ra tại miền Bắc Việt Nam.
Quân Pháp tham gia cuộc chiến này, với ước muốn tiếp tục giữ Đông Dương làm thuộc địa, sau khi người Nhật đã bại trận và mất hết quyền kiểm soát ở vùng Đông Nam Á Thái Bình Dương.  Đây là lý do chính trị và tâm lý hơn là kinh tế.  Những người Pháp ủng hộ cuộc chiến cho rằng nếu Pháp để mất Đông Dương, thì quyền lợi của Pháp tại các nước khác sẽ nhanh chóng bị mất theo.  Chính phủ Pháp cho rằng so với một cuộc xâm chiếm thuộc địa cổ điển với việc chiếm giữ các trung tâm dân số và mở rộng dần theo kiểu "vết dầu loang" mà người Pháp đã thực hiện rất thành công ở Maroc và Algeria, thì cuộc chiến này sẽ chỉ có quy mô lớn hơn một chút. Và mặc dù Pháp chiếm được ưu thế quân sự trong thời gian đầu, nhưng lực lượng Việt Minh và các nhóm Việt Nam thuộc phe Quốc Gia kháng chiến cũng đã phát triển ngày càng mạnh thêm và mau chóng kiểm soát được nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn [3].
 Trong suốt thời kỳ từ khi Pháp bắt đầu xâm chiếm Việt Nam, đã có nhiều cuộc khởi nghĩa và phong trào chống Pháp do vua, quan, hoặc nông dân tổ chức. Nhưng tất cả đều bị thất bại.
Năm 1927 những người Việt cấp tiến đã thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (giống như Trung Hoa Quốc Dân Đảng). Đến năm 1930, sau khi cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái thất bại, Việt Nam Quốc Dân Đảng bị suy yếu trầm trọng. Cùng năm này, những tay sai Việt Gian theo chủ nghĩa Marx-Lenin đã thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương tại Hồng Kông, và cũng mau chóng trở thành mục tiêu tiêu diệt của Pháp, mặc dù tổ chức của họ thân thiện với Mặt Trận Bình Dân trong chính quyền Pháp.
Năm 1940, Nhật Bản tấn công Đông Dương và nhanh chóng thỏa thuận được với chính quyền Vichy ở Pháp, để Nhật toàn quyền cai trị Đông Dương và thực dân Pháp chỉ tồn tại đến tháng 3 năm 1945 khi Nhật lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ngay sau đó, Nhật thiết lập một chính quyền mới cho Việt Nam và chọn ông Trần Trọng Kim, một nhà nho uy tín đứng đầu chính phủ .
"Việt Minh", là cách gọi tắt thay cho "Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội" do Hồ Chí Minh (Một Việt gian tay sai của Cộng Sản Quốc Tế) thành lập năm 1941, với vai trò lãnh đạo một mặt trận thống nhất dân tộc để giành độc lập.  Tháng 12 năm 1944 tại Cao Bằng, một nhóm nhỏ đã thành lập đội "Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân" (một lực lượng vũ trang khủng bố của Việt Minh).  
Đầu năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn. Chiến tranh thế giới đã làm kiệt quệ nền kinh tế thế giới, người Nhật đã chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, và độc ác bắt dân Việt Nam phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nên nạn đói năm Ất Dậu (1945) đã xảy ra tại Bắc kỳ và Trung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có hơn một triệu người Việt Nam chết trong nạn đói này. Và sau khi bị lãnh trọn hai quả bom nguyên tử của Mỹ, tại Hiroshima và Nagasaki, Nhật Hoàng đã phải đầu hàng vô điều kiện.
            Ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh, thì lực lượng Việt Minh đã  nhanh tay cướp công lao chiến đấu, cách mạng của nhân dân Việt Nam.  Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Việt gian Hồ Chí Minh cùng một nhóm tay sai Cộng Sản đã tự ra tuyên bố "Việt Nam thống nhất và độc lập" với tên gọi là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Từ đó bọn Việt Cộng đã có ngày kỷ niệm giành độc lập 2 tháng 9.
        Theo hiệp ước Potsdam, lực lượng Đồng Minh gồm quân Anh và quân Trung Hoa phải vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật. Cả Anh và Trung Hoa Dân Quốc đều muốn hạ bệ Chính Phủ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (bọn Việt Minh), nên Anh Quốc ủng hộ sự trở lại của Pháp tại Đông Dương, còn Trung Hoa thì muốn đưa lực lượng thân Trung Hoa lên nắm quyền.
            Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch đã tiến vào với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, nhưng mang theo kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ.  Và đội quân ô hợp này đã mang theo gia đình, vợ con, có những phần tử bất hảo "mượn gió bẻ măng", tham ăn tục uống vì đói khổ lâu ngày bên Tàu, đã ra tay phá làng phá xóm, giở thói ăn cắp vặt, xách nhiễu làm khổ dân. Trong đám quân ô hợp của Tưởng Giới Thạch, có quân Lư Hán đóng tại ngôi trường có tên là "Trường Nam Hà Đông".       
Ở miền Nam, chỉ 4 ngày sau khi Việt Nam "tuyên bố độc lập", phái bộ quân sự Anh đã có mặt ở Sài Gòn, theo sau là liên quân Anh - Pháp.  Quân Anh trên danh nghĩa là theo lệnh Đồng Minh vào giám sát quân Nhật đầu hàng, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho quân Pháp vào Nam Bộ, vì biết Chính Phủ lâm thời của Cộng hòa Pháp muốn khôi phục lãnh thổ các thuộc địa ở Đông Dương.
Ngày 19-9-1945, Pháp tuyên bố sẽ lập chính quyền tại miền Nam Việt Nam.  Ngày 23, với sự giúp đỡ của quân Anh, quân Pháp nổ súng chiếm quyền kiểm soát Sài Gòn. Ngày 9 tháng 10 năm 1945, tướng Pháp Leclerc đến Sài Gòn, theo cùng ông là một lực lượng gồm 40.000 quân Pháp, có "nhiệm vụ" chiếm giữ miền Nam Việt Nam và Campuchia. Từ cuối tháng 10 năm 1945, quân Pháp bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch mở rộng, phá vòng vây, đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ.
            Hồ Chí Minh đã thảo một bức điện tín kêu cứu gửi Tổng thống Mỹ Harry Truman và kêu gọi sự ủng hộ của Mỹ.  Từ cuối tháng 9 năm 1945, các đoàn quân "Nam tiến" của Vệ Quốc Đoàn (quân đội của Việt Minh trá hình) bắt đầu lên đường vào Nam chống Pháp[4]. Các tướng lĩnh quan trọng như Nguyễn Bình, Nguyễn Sơn... được cấp tốc cử vào Nam. Trong hai tháng cuối năm 1945 và tháng 01 năm 1946, lực lượng Việt Minh tại các tỉnh Nam Bộ đã chiến đấu ngăn chặn và làm chậm bước tiến của quân Pháp.  Tuy nhiên, do lực lượng chênh lệch, sau một thời gian, các lực lượng Việt Minh này đều tháo chạy ra những căn cứ đầm lầy và rừng núi.
            Trong suốt năm 1946, mặc dù hai bên cùng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh, chính quyền Việt Minh cố gắng thương lượng với Pháp để cứu vãn hòa bình và đẩy lui thời điểm nổ ra cuộc chiến tranh.
            Tại miền Bắc, các cơ quan chính phủ của Việt Minh bí mật chuyển dần ra các địa điểm đã được chuẩn bị trước ở bên ngoài thành phố.  Trong thành phố, quân và dân Hà Nội bắt đầu xây dựng các chiến lũy phòng thủ trên đường phố.  Quân Pháp cũng củng cố lại các vị trí phòng thủ của mình.  Ngày 6 tháng 12 năm 1945, Việt Minh kêu gọi quân Pháp rút về các vị trí họ đã giữ từ trước ngày 20 tháng 11 năm 1945, nhưng Hồ Chí Minh không nhận được phản hồi.
            Ngày 12 tháng 12 năm 1945. Léon Brum, Thủ Tướng mới của Pháp tuyên bố ý định giải quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam.  Ba ngày sau, Việt Gian Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ý cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêu cầu chuyển tiếp tới Paris.
            Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy Pháp D'Argenlieu là việc tăng quân số và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt. Valluy người có chung quyết tâm với D'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đã quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và vào sự đã rồi.  Ngày 16 tháng 12 năm 1945, ông Valluy lệnh cho tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Sài Gòn, Valluy viết thêm bình luận của mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19 tháng 12 năm 1945, bức điện mới đến được Paris, khi đó đã quá muộn.
            Ngày 17 tháng 12 năm 1945 quân Pháp với xe tăng yểm trợ đã vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở phố
Hàng Bún (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên, bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Việt Minh không phản ứng.
Hôm sau, 18 tháng 12, Pháp lại ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Đến chiều ngày 18, Pháp ra tối hậu thư lần thứ hai tuyên bố rằng kể từ ngày 20 tháng 12 năm 1945, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội.  Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố.  Sáng hôm sau (ngày 19 tháng 12), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi chính phủ Việt Nam đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố.
            Sau năm 1946-1947, lực lượng chủ lực của Việt Minh có khoảng 60.000 người, chưa kể tự vệ và du kích địa phương. Vũ khí thiếu thốn, chủ yếu là do tự tạo và lấy được của Pháp. Tuy rất yếu về hỏa lực nhưng cơ động và có được sự hỗ trợ lớn mạnh của nhân dân, nên các tiểu đoàn Việt Minh ngày càng có khả năng tránh các trận càn của Pháp và có cơ hội tấn công đối phương tại những nơi mình lựa chọn.  Việt Minh tổ chức du kích là những chiến sĩ bán quân sự, nửa bí mật nửa công khai, sống tại nhà, vừa làm ruộng vừa chiến đấu trong lòng địch.
            Cuộc chiến tranh du kích tại đồng bằng gây khó khăn lớn cho Pháp.  Ở mọi nơi, Việt Minh vẫn tự do đi lại, tuyển quân, thu thuế.  Có những Hội Tề (chính quyền làng xã thân Pháp) được lập ra để che mắt Pháp nhưng lại hành động theo Việt Minh.  Dân chúng gánh thóc gạo từ vùng do Pháp chiếm đóng đi nộp thuế cho Việt Minh.  Các đội du kích được thành lập khắp các vùng bị chiếm đóng, để quấy rối quân Pháp, và Pháp phải để phần lớn quân chủ lực, giữ gìn đồng bằng Bắc Bộ.  Đồng bằng Bắc dù là vùng do Pháp kiểm soát, nhưng thực chất là tại vùng đồng bằng màu mỡ đông dân đó, vẫn là nguồn cung cấp nhân lực, hàng hóa và lương thực lớn nhất cho Việt Minh. Thắng lợi duy nhất của Pháp trong thời gian này là về chính trị, khi sách lược hà khắc của tướng Nguyễn Bình, tổng chỉ huy Việt Minh tại Nam Bộ, đã làm nhiều người Việt ở Nam Bộ xa
lánh, và đẩy lãnh đạo của các giáo phái Hòa Hảo, Cao Đài về phía Pháp.

 Pháp sa lầy và giải pháp Bảo Đại

            Hoàn thành việc đánh rộng ra khắp vùng đồng bằng. Pháp quyết định tiến công lên Việt Bắc để sớm kết thúc chiến tranh. Ngày 7 tháng 10 năm 1947, Chiến dịch Léa: tấn công vào chiến khu Việt Bắc bắt đầu.  Quân Pháp tiến nhanh và mau chóng định vị được những nơi đóng các cơ quan đầu não của đối phương.  Nhưng phe Hồ Chí Minh đã đi thoát, lực lượng vũ trang của Việt Minh đã lặng lẽ lẩn vào rừng rồi quay ra đánh quân Pháp tại những nơi mà họ tự chọn.
Tuy Pháp không đạt được mục đích tiêu diệt căn cứ Việt Bắc, nhưng họ đã cắt được đường số 4 và kiểm soát biên giới Việt Trung tại Cao Bằng, cô lập Việt Minh với thế giới bên ngoài. Sau chiến dịch Léa, xung đột lặng xuống. Vì thiếu phương tiện để tiếp tục các chiến dịch tấn công, quân Pháp chỉ giới hạn trong các hoạt động vừa phải ở đồng bằng.
Về phía Việt Minh, tại đồng bằng sông Hồng, các đội du kích được thành lập thêm khắp các vùng bị chiếm, tiếp tục đẩy mạnh quấy rối, cầm giữ phần lớn quân Pháp trong vùng đồng bằng. Vì thế mỗi chuyến hàng của Pháp từ Hải Phòng về Hà Nội phải tụ thành đoàn lớn, có nhiều xe tăng và lính bảo vệ mới đi thoát được.  Các đường bộ bị đào bới để ngăn cản xe cơ giới. Đường sắt bị bóc hết gang thép làm vũ khí.
Ở miền Trung Việt Nam, Việt Minh xây dựng được một vùng giải phóng kéo dài từ Hội An đến Mũi Đại Lãnh, gần như ngăn đôi đất nước.
Ở miền Nam, quân Pháp trong tình thế tốt hơn do lực lượng Việt Minh ở đây ở xa, và liên lạc rất khó khăn với lực lượng ở miền Bắc. Lực lượng của tướng Nguyễn Bình bị đẩy  
vào vùng đầm lầy và rừng núi, họ còn gặp sự chống đối của các nhóm sắc tộc thiểu số khác của người Việt.
            Ngày 8 tháng 3 năm 1949. Tổng thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc Gia Việt Nam trong khối Liên Hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc Trưởng Bảo Đại. Tuy nhiên chính quyền Quốc Gia Việt Nam non trẻ này, rất yếu ớt, vì các quyền quan trọng về quân sự, tài chính và ngoại giao đều do người Pháp nắm giữ và quyền hành cao nhất trên thực tế là Cao Uỷ Pháp.
Quân đội Quốc Gia Việt Nam được thành lập nhưng được huấn luyện rất kém và không có sĩ quan người Việt giữ chức chỉ huy cấp cao, vì Pháp chỉ đơn giản là đưa những người lính mới tuyển mộ được, gia nhập vào các đoàn quân viễn chinh của Pháp, do các sĩ quan người Pháp chỉ huy.
            Năm 1950, Chiến Tranh Đông Dương có sự thay đổi quan trọng, chuyển sang một giai đoạn mới. Về phía Pháp, chiến tranh đã vào thế sa lầy, tuy họ đã dùng đến 40 - 45% ngân sách quân sự và 10% ngân sách quốc gia.
Vào tháng 6 năm 1950, với sự bùng nổ của chiến tranh Triều Tiên, Mỹ đã thay đổi thái độ về Chiến Tranh Đông Dương, coi Triều Tiên và Việt Nam là hai chiến trường phụ thuộc lẫn nhau trong cuộc chiến của phương Tây, chống lại Chủ Nghĩa Cộng Sản. Tổng Thống Mỹ Truman tuyên bố sẽ viện trợ quân sự trực tiếp cho các nổ lực của Pháp tại Đông Dương.
            Năm 1949, ở Trung Hoa, đảng Cộng Sản Trung Quốc đã giành được quyền lực trên toàn quốc. Họ nhanh chóng công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
            Kể từ giờ phút này, hai khối Nga Mỹ bắt đầu gián tiếp can thiệp vào cuộc chiến.  Bên Pháp có phái đoàn Mỹ từ Manila qua Sài Gòn do ông John Melby dẫn đầu.  Bên Việt Minh có đại tướng Trần Canh là một trong danh tướng của Trung Cộng.
     Thành công của Việt Minh trong chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950, đã phá được thế bị cô lập của căn cứ địa Việt Bắc.  Khai thông dải biên giới Việt - Trung từ Cao Bằng tới Vịnh Bắc Bộ, mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ.  Việt Minh bắt đầu chuyển sang thế chủ động tấn công Pháp.  Khi không còn hy vọng tiến công hay bao vây chiến khu Việt Bắc. Pháp tổ chức phòng tuyến Tassigny để bảo vệ vùng đồng bằng.
            Từ khi Việt Minh chuyển sang chủ động tiến công đánh Pháp, gồm các chiến dịch liên tiếp: chiến dịch Trung Du, chiến dịch Hoàng Hoa Thám, chiến dịch Hà Nam Ninh, chiến dịch Hoà Bình, chiến dịch Tây Bắc, chiến dịch Thượng Lào... Những chiến dịch này đã bóc vỏ phòng tuyến Tassigny khỏi đồng bằng, buộc Pháp phải co cụm lại duy trì một lực lượng lớn bên trong bảo vệ vùng đồng bằng Bắc Bộ.
            Năm 1951, Việt Minh bắt đầu thực hiện các trận chiến quy mô lớn theo kiểu kinh điển. Nhưng họ đã phải chịu thiệt hại lớn.  Các chiến dịch Hoàng Hoa Thám và Hà Nam Ninh bị thất bại nặng nề trước quân Pháp, do tướng de Lattre de Tassigny chỉ huy.  Trận Hòa Bình mà De Lattre mở vào tháng 11 năm 1951 đã trở thành "cối xay thịt" đối với cả hai bên.  Khi trận đánh kết thúc vào tháng 2 năm 1952, Việt Minh chịu thương vong rất lớn. Nhưng họ đã học được cách đối phó với chiến thuật và vũ khí của Pháp, và họ đã thâm nhập được vào sâu hơn vào trong vòng cung phòng thủ của Pháp.
            Cuối năm 1952, Việt Minh đánh sang vùng núi phía Tây Bắc Việt Nam, rồi vượt sang lãnh thổ Lào.  Chỉ huy mới của Pháp, tướng Raoul Salan cố gắng chận đứng cuộc tấn công này bằng cách đánh vào các tuyến hậu cần của Việt Minh.  Nhưng không có kết quả.  Đến tháng 12 năm 1952, quân Việt Minh vẫn chiếm giữ được vùng biên giới Việt – Lào, trong khi quân Pháp đã quay trở lại bên trong tuyến phòng thủ mạnh bảo vệ đồng bằng sông Hồng.
            Ở miền Trung, Việt Minh đã đạt được những thành công quan trọng. Vùng kiểm soát của Pháp ở Tây Nguyên đã bị thu nhỏ lại chỉ còn vài vùng ven biển hẹp ở quanh Huế, Đà Nẵng, và Nha Trang.  Những khu vực duy nhất mà Pháp còn có hy vọng thành công là Nam Kỳ và Campuchia.
Mùa xuân năm 1953, Việt Minh tổ chức một lực lượng lớn đánh sang Lào với sự hỗ trợ của Pathet Lào.  Nhưng Quân Pháp đã  thành công trong việc ngăn không để Việt Minh chiếm được Cánh đồng Chum và đến tháng 4 thì chặn lại được Việt Minh. Khi mùa mưa đến buộc Việt Minh phải quay trở lại căn cứ.
            Ở các vùng khác, Việt Minh tấn công phối hơp đồng bộ từ Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Bộ, buộc Pháp phân tán xé lẻ khối quân cơ động. Tiếp theo Việt Minh tiến đánh Tây Bắc, Pháp không còn lực lượng cơ động để ứng cứu, hình thành Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954.

         Kế hoạch Navarre và trận Điện Biên Phủ

Tháng 7 năm 1953, chỉ huy mới của Pháp, Tướng Henri Navarre, đến Đông Dương. Được sự hứa hẹn về việc Mỹ tăng viện trợ quân sự, Navarre chuẩn bị cho một cuộc tổng tấn công mà báo chí Pháp và Mỹ gọi là "Kế hoạch Navarre".
            Ngày 18-7-1953, Navarre mở cuộc hành quân "Chim Én" vào Lạng Sơn và cuộc hành quân "Camargue" vào Quảng Trị, phá hủy được một số dụng cụ và máy móc của Việt Minh. Ở Lạng Sơn, Pháp diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ của Việt Minh trong khu tam giác là mối hăm dọa trên quốc lộ số  1 (Trung Việt). Liên tiếp với hai cuộc hành quân này, ngày 9-8-53 Pháp rút quân ra khỏi Na Sản bằng không vận.  Trước đây, tháng 10 năm 52, Pháp đặt chiến lũy Na Sản để ngăn Việt Minh trên con đường tiến của họ qua xứ Lào. 
  Cùng lúc đó, Võ Nguyên Giáp đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công lớn hơn vào Lào. Với 5 sư đoàn, Việt Minh hy vọng sẽ chiếm được toàn bộ Lào và có lẽ cả Campuchia nữa. Sau đó hội quân với lực lượng Việt Minh ở miền Nam để tấn công vào Sài Gòn, trong khi 60.000 du kích và 5 sư đoàn chủ lực ở miền Bắc sẽ cầm chân Pháp tại đó. Đến tháng 12 năm 1953 và tháng 1 năm 1954, Việt Minh đã chiếm được phần lớn vùng Nam và Trung Lào.  
         Để đối phó, Navarre thiết lập một căn cứ quân sự ở vùng Tây Bắc Việt Nam, chặn giữa tuyến đường chính của Việt Minh sang Lào.  Ông xem căn cứ này vừa là một vị trí khóa chặn, vừa là một cái bẫy để nhử đối phương vào một trận đánh lớn theo kiểu kinh điển và có tính chất quyết định, mà tại đó họ sẽ bị tiêu diệt bởi pháo binh và hỏa lực không quân Pháp. Navarre đã chọn Điện Biên Phủ, vùng đất nằm trong một thung lũng lớn, cách Hà Nội 200 dặm đường hàng không, trong khi Pháp chỉ có khoảng 100 máy bay, và nhường các điểm cao xung quanh cho Việt Minh, ông cho rằng khi đó Việt Minh chưa có trọng pháo nên sẽ không có nguy hiểm gì từ các điểm cao.

            Tướng Giáp quyết định vào "bẫy", nhưng ông đưa vào Điện Biên Phủ 4 sư đoàn cùng với một số lượng lớn trọng pháo do Trung Quốc viện trợ.  Những hoạt động du kích của Việt Minh khắp nơi không cho Pháp tập hợp một đội quân cơ động ứng cứu.  Những Đơn vị phòng không đầu tiên của Việt Minh được huấn luyện ở Trung Quốc về nước tham chiến.  Một lực lượng khổng lồ dân công làm công tác vận tải vũ khí và lương thực. Các đơn vị mạnh nhất của Việt Minh đã  bao vây quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Cuộc vây hãm Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 năm 1954 khi quân Pháp đầu hàng. Ở Washington đã có cuộc tranh luận về việc Mỹ có nên trực tiếp can thiệp bằng quân sự.  Nhưng Tổng Thống Eisenhower đã quyết định loại bỏ khả năng này, do chính quyền Anh sẽ không ủng hộ.

 Cục diện chiến trường Đông Dương, tại thời điểm trong và sau Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Việt Minh (tức Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa) kiểm soát khoảng 2/3 lãnh thổ Việt Nam, chủ yếu là các vùng nông thôn và rừng núi, chưa kiểm soát được các thành phố lớn.  Pháp kiểm soát một số tỉnh đồng bằng và các thành phố lớn đông dân cư, một số tỉnh đồng bằng còn nằm trong vùng tranh chấp.
            Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của Việt Minh trong toàn bộ chiến tranh Đông Dương. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp và buộc nước này rút ra khỏi Đông Dương.  Ngày 8 tháng 5 năm 1954 hội nghị Geneva bắt đầu họp bàn về vấn đề khôi phục hòa bình ở Đông Dương.

Sự tham gia của Mỹ

Sau Thế chiến II, Anh và Pháp đã  liên minh với nhau bảo vệ hệ thống thuộc địa cũ.  Ban đầu, Mỹ ủng hộ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, mặc dù điều này gây mâu thuẫn gay gắt giữa Mỹ và Anh, Pháp, vì các phong trào độc lập và cách mạng ở Mỹ La tinh, Trung Quốc trước đây được Mỹ ủng hộ và có lợi cho người Mỹ, vốn kém các nước châu Âu thuộc địa.
Pháp đã mệt mỏi vì chiến tranh, họ mong muốn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Dùng người Việt đánh người Việt" hy vọng giảm bớt hao tổn người và tiền bạc cho Pháp. Một mặt Pháp thành lập Quốc Gia Việt Nam năm 1949, phát triển quân đội người bản xứ. Một mặt Pháp thuyết phục Mỹ rằng Pháp đang chống Cộng chứ không phải mục đích chính là tái chiếm thuộc địa.  Ở Mỹ các thế lực chống Cộng cực đoan nắm quyền. Hoover thực hiện các chiến dịch khủng bố chống Cộng. Người Mỹ tin Pháp, và giúp tiền bạc cho Pháp.
          Đến cuối chiến tranh, kinh phí chủ yếu do Mỹ cấp lên đến 1,5 tỷ USD. Cuối chiến tranh, người Mỹ trực tiếp chở 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ. Nhờ điều đó mà người Pháp duy trì được cuộc chiến.  Đến nay nhiều người Mỹ vẫn không biết vì sao họ bị lôi kéo vào chiến tranh.  Ít người nói đến việc nước Mỹ đã bị Pháp kéo vào cuộc.

Hiệp định Genève 1954

Hội nghị Genève khai mạc ngày 26 tháng 4 năm 1954 để bàn về vấn đề khôi phục hoà bình tại Triều Tiên và Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ ngày 8 tháng 5 vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận.
Do sức ép của Trung Quốc và Liên Xô, đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã đồng ý với một bản hiệp định mang lại cho họ ít hơn, những gì họ đã giành được trên chiến trường.  Tuy ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam được tuyên bố độc lập, và điều quan trọng là sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được công nhận.  Nhưng Việt Nam bị tạm thời chia đôi thành hai khu vực quân sự để hai bên quân đội, Việt Minh và Pháp tập kết. Quân Pháp sẽ rút dần khỏi Việt Nam.  Cuộc Tổng Tuyển Cử đi đến thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện trong vòng 2 năm.
   Trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương lần thứ nhất này, thương vong của Pháp là 140.992, trong đó có 75.867 chết và mất tích, 65.125 bị thương; các quân đội đồng minh ở Đông Dương chịu thương vong 31.716 người, trong đó có 18.714 chết và mất tích, 13.002 bị thương; thương vong của Việt Minh được ước tính khoảng gấp 3 lần tổng thương vong của Pháp và đồng minh.  Khoảng 25.000 dân thường Việt Nam bị thiệt mạng.
   Cuộc chiến đã góp phần làm nước Pháp suy sụp và phân hóa. Các chính phủ hiếu chiến bị lật đổ liên tiếp.  Pháp chi phí 3.000 tỷ quan, tương đương 7 tỷ USD (trung bình 1 tỷ quan/ngày).  Nội Các Pháp thay đổi 20 lần, trung bình mỗi Chính Phủ chỉ tồn tại 7 tháng (có Chính Phủ chỉ tồn tại trong 7 ngày).  Bảy lần Cao Uỷ Pháp bị triệu hồi, 8 Tổng Chỉ Huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận. 
Theo kết quả của hiệp định Genève, Quân đội Việt Minh, lực lượng vừa giành được thắng lợi quan trọng trên chiến trường, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc Gia Việt Nam, theo quân đội Pháp tập kết về miền Nam.  Trên 1 triệu người dân từ miền Bắc đã di cư vào Nam (trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, chiếm khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc),và 140.000 người từ miền Nam tập kết ra Bắc.
      Người di cư vào Nam theo chương trình Passage to Freedom (Con đường đến Tự Do) bắt đầu tháng 08 năm 1954. Ngày 10 tháng 10 năm 1954 quân Pháp chính thức rút khỏi Hà Nội. Quân đội Việt Minh vào tiếp quản Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh miền Bắc.
Ở miền Nam, quân đội Pháp cũng dần dần rút đi và trao quyền lực cho chính quyền Quốc Gia Việt Nam. 
Theo lời kể của cụ Trần Văn Đỗ qua lá thư của cụ thì:
 "Cụ Diệm sau khi được bổ nhiệm lập Chính phủ ngày 18 tháng 6 năm 1954, Cụ mời tôi lại giúp. Và trước khi về nước hôm 20 tháng 6, Cụ nhờ tôi đi thay giáo sư Nguyễn Quốc Định.
Tôi cũng sang Genève, hỏi nhân viên Phái Đoàn thì họ nói lúc này nghỉ hè các Trưởng Phái Đoàn đều vắng trừ Việt Minh, Lào, Cao Miên. Không có tin tức gì các Phái Đoàn nói chuyện với nhau, không ai đá động gì đến ta cả. Trong lúc đó có tin ngoài hành lang nói đến việc chia xẻ đất đai. Tin đồn không biết thiệt hư.  Ở đâu ra?  Phía Pháp, trước khi tôi qua
Genève, ông Tổng Trưởng Guy la Chambre (Ministre des Etats Associés) hứa có tin gì thì sẽ cho mình biết.  Nhưng không bao giờ HỌ cho mình biết gì cả.  Bởi vậy nên khoảng ngày 3 hoặc 4 tháng 7, hai ông Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Mạnh Hà đến trụ sở hỏi tôi có bằng lòng gặp Phạm Văn Đồng không, tôi nói tôi không có complex chi cả, gặp ai cũng được, đâu cũng được, lúc nào cũng được.
Hôm sau tôi đi với ông Nguyễn Hữu Châu qua trụ sở Việt Minh gặp Phạm Văn Đồng, có mặt Hoàng Văn Hoan, Trần Công Tường.  Chào hỏi xong, ông Đồng nói đến vấn đề chia xẻ đất.  Tôi hỏi chia chỗ nào?  Trả lời: lối vĩ tuyến 13-rồi đem bản đồ ra chỉ về đường đi từ Pleiku xuống An Khê.  Hỏi thì tôi trả lời không có ý kiến. Đồng nói: nhưng chia chỉ tạm thời vì tính sẽ có Tổng tuyển cử để thống nhất. Hỏi: Trong vòng sáu tháng? Tôi trả lời: Chưa có ý kiến gì, vì mới tới.
Ngày hôm sau, Đồng sang đáp lễ, không nói gì khác. Nhờ vậy mà tôi mới biết việc họ bàn tính với nhau, định đoạt số phận mình, mà không cho mình biết.
Chỉ vài giờ sau khi tôi nói chuyện với bên Việt Minh thì báo chí tung ra: "La rencontre des frères ennemis". Vì đây là lần đầu mà hai bên gặp nói chuyện riêng với nhau.
Tôi về nhà một lát thì phái đoàn Pháp, kế đến phái đoàn Mỹ xin lại gặp tôi.
Người Pháp hỏi tôi nói chuyện với Phạm Văn Đồng có chi lạ cho họ biết với.  Tôi nói tôi đi thăm ông Đồng cũng như đi thăm các ông - thăm xã giao. Họ nói có nhiệm vụ trình tôi một cái Note Verbale.  Tôi đọc thấy đại ý: Pháp, Mỹ và Anh đã gặp nhau vào lối 27 Avril (nếu tôi không nhầm) và định là chia vào khoảng 18 vĩ tuyến thì có thể nhận được. Tôi trả lời tờ Note Verbale và nói: "Tôi cảm ơn ông nhưng tôi đã biết rồi. Tiếc rằng các ông hứa cho tôi biết tài liệu, chi tiết các cuộc tiếp xúc của các ông mà từ khi tôi qua đây tới nay tôi không có tin tức gì cả."
Một giờ sau, người Đại Diện phái đoàn Mỹ lại cũng đưa tôi tờ Note Verbale đó!
Biết chắc được sự kiện về giải pháp chia xẻ đất nước, tôi phải định lại kế hoạch. Bàn cãi gì cũng vô ích.  Bạn với thù họ
đã thỏa thuận với nhau để chia đôi đất nước rồi.  Việt Minh vừa thắng Điện Biên Phủ. Pháp kiệt quệ chỉ muốn rút quân về.  Mỹ không chịu giúp. Ta chưa đủ sức, quân đội mới phôi thai. Không có cách gì chống cự lại, nếu không chịu để cho họ chia đôi đất nước.
Nên gặp Thủ tướng Pháp Mendès France, Tôi nói, các ông tính chia nước chúng tôi, tôi không thể chống lại được. Tôi chỉ có thể phản đối cái giải pháp đó. Tôi sẽ phản đối kịch liệt, nhưng nếu Pháp đã bị thất bại vì Pháp cứ từ 1946 đến nay khư khư không trả độc lập cho chúng tôi.  Cho đến giờ này vẫn còn nói đến “Độc lập trong Liên Hiệp Pháp", nghĩa là không ngoại giao, không Quốc phòng làm sao dân chúng tôi chấp thuận được. Cho nên tuy họ biết Việt Minh là Cộng Sản họ cũng chịu tranh đấu dưới quyền chỉ huy Việt Minh thành một thứ Liên Minh Quốc Gia & Cộng Sản để lấy độc lập thật sự mà các ông không chịu trả cho chúng tôi.
Bây giờ chia đôi đất nước tôi. Phía trên Cộng Sản nếu các ông còn giữ Nam Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp nữa thì không sớm thì muộn miền Nam sẽ rơi vào tay Cộng Sản nữa.   Vậy xin yêu cầu ông trả cho miền Nam cái Độc Lập thật sự.  Tôi yêu cầu ông long trọng tuyên bố tại nơi đây.  Nếu tôi không được lời tuyên bố đó và hứa hẹn long trọng đó thì tôi xin thưa thật với ông tôi bỏ Genève mà về ngay lập tức, Ông Mendès France nói: "Est ce une menace?" Tôi nói tôi không phải nhà Ngoại giao chuyên môn nên nghĩ sao nói vậy. Ông Mendès France nghĩ ngợi rồi nói: "Xin ông cho người qua Văn phòng tôi để bàn về lời tuyên bố đó". Tôi nhờ ông Nguyễn Hữu Châu thương thuyết hơn ba ngày mới xong. Tờ tuyên bố của ông Mendès France tôi đưa về cho Cụ Diệm.
Để trả lời tiếng đồn rằng tôi đã khóc tại Hội trường sau khi có quyết nghị chia đôi đất nước, thì Cụ thấy tôi như trình bày trên đây là quyết nghị chia tôi biết trước 15 ngày mà đã biết rằng chỉ còn có thể phản đối mà thôi, không phải là một sự đột ngột bất ngờ mà mình nghẹn ngào vì bất lực như một người bị ăn hiếp đau đớn quá không làm gì được mà phải khóc! Lời phản đối bàn tính trước cân nhắc từng chữ, từng dấu phẩy, chớ không gặp sự bất ngờ làm xúc động con người đến khóc.
Chuyện khóc không có, chắc là báo chí thêu dệt. Mà dù có khóc đi nữa cũng không có xấu, nhục nhã gì mà phải chối cãi. Nhưng tôi muốn trình sự thật để Cụ rõ.
Nay kính,
Trần Văn Đỗ

Ghi chú:

1. Bức thư trên đây cho thấy vị Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ của Chính Phủ Ngô Đình Diệm bị đặt trước một việc đã rồi, nên không thể chống lại việc chia đôi đất nước.
2. Tuy Việt Minh đòi chia đôi ngang Vỹ tuyến 13 nhưng họ chỉ mong mỏi và nằng nặc đòi Pháp phải chia đôi ngang Vỹ tuyến 16 nghĩa là dưới Đà Nẵng để họ có thể chiếm được Cố Đô và Hải Cảng quan trọng của miền Trung. Tuy nhiên cuộc vận động ngầm của Mendès France với hai Ngoại trưởng Nga và Tàu chỉ đưa đến kết quả là lấy Vỹ tuyến 17 để chia đôi Việt Nam.
3. Theo Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ thì Thủ Tướng kiêm Ngoại Trưởng Mendès France có đưa ra lời tuyên bố trả lại Độc Lập cho Việt Nam.  Nền Độc Lập của miền Nam Việt Nam được kiện toàn (quân đội viễn chinh Pháp rút về nước), lại là công lao của Ngoại Trưởng Foster Dulles (Mỹ) làm áp lực với Chính Phủ Mỹ.

Tham Khảo
1. Windrow, Martin (1998). The French Indochina War 1946-1954 (Men-At-Arms, trang 322), London: NXB Osprey Publishing.
2. Đường tới DBP-Điểm Hẹn Lịch sử-VNG
3. Spencer C.Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, ABC-CLIO, 2000, tr. 188.
5. Duiker, William, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, 2000, tr. 379
6. Barnet, Richard J. (1968). Intervention and Revolution: The United States in the Third World, trang 185, NXB World Publishing.
7. Prados, John (August 2007, Volume 20, Number 1). The Smaller Dragon Strikes, 50, MHQ: The Quarterly Journal of Military History.
8. Duiker, William, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, 2000, tr. 400, 412-413
9. Spencer C.Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, ABC-CLIO, 2000, tr. 189-190, 474.
10. Trang 496-497, Việt Sử Toàn Thư
11. "Nhớ về Anh", Hồi Ký nói về cuộc đời của Lê Đức Thọ (trong đó nói về giai đoạn bàn thảo chia vỹ tuyến 13-17).

No comments:

Post a Comment